Lợn biển sinh sản rất chậm. Cứ 4 -5 năm, lợn biển cái mới sinh con. Nó mang thai 13 tháng và chỉ đẻ mỗi 1 con/lứa. Lợn biển con sẽ ở với mẹ nó trong 2 năm đầu đời.Lợn biển tương tự như hải mã hay cá voi nhỏ nhưng chúng có họ hàng gần gũi với loài voi hơn. Chúng có màu xám hoặc nâu xám. Lợn biển dài 3,6m và nặng hơn 453kg. Bất chấp kích thước cơ thể đồ sộ, lợn biển vẫn di chuyển nhẹ nhàng và uyển chuyển dưới nước.Lợn biển tiến hóa từ những động vật sống trên cạn cách đây 60 triệu năm. Môi của nó rất dày, giúp nó ngoạm được thức ăn. Hàm răng của lợn biển phát triển liên tục suốt cuộc đời.Lợn biển không có tai ngoài nhưng tai trong của nó rất lớn giúp nó nghe tốt. Mắt của lợn biển nhỏ nhưng lại nhìn rất rõ.Tất cả các loài động vật có vú đều có 7 đốt sống cổ trong khi lợn biển chỉ có 6 đốt. Chính vì thế mà chúng không thể quay đầu sang hai bên. Nếu muốn nhìn phía sau, lợn biển sẽ phải xoay cả cơ thể.Lợn biển dành phần lớn thời gian ở dưới nước. Vì chúng có phổi và hít thở không khí nên cứ 3 - 4 phút lợn biển phải ngoi lên mặt nước khi chúng bơi. Còn khi nghỉ ngơi, lợn biển có thể ở dưới nước tối đa 15 phút mà không cần phải ngoi lên mặt nước.Lợn biển rất nhạy cảm với những thay đổi về nhiệt độ nước. Nhiệt độ nước dưới 15,5°C có thể khiến lợn biển bị viêm phổi và dẫn đến tử vong.Không giống như các loài động vật biển có vú khác, lợn biển là động vật ăn cỏ. Do cây cỏ có giá trị dinh dưỡng thấp nên lợn biển cần phải ăn tới 45kg thức ăn một ngày.Lợn biển giao tiếp với nhau bằng một loạt những âm thanh khác nhau và phần lớn sự giao tiếp diễn ra giữa lợn biển mẹ và lợn biển con. Các loại hình giao tiếp khác gồm có: chạm, ngửi, nếm và các tín hiệu thị giác. Sự giao tiếp này diễn ra khi chúng chơi đùa hoặc diễn ra trong thời kì giao phối.
Lợn biển sinh sản rất chậm. Cứ 4 -5 năm, lợn biển cái mới sinh con. Nó mang thai 13 tháng và chỉ đẻ mỗi 1 con/lứa. Lợn biển con sẽ ở với mẹ nó trong 2 năm đầu đời.
Lợn biển tương tự như hải mã hay cá voi nhỏ nhưng chúng có họ hàng gần gũi với loài voi hơn. Chúng có màu xám hoặc nâu xám. Lợn biển dài 3,6m và nặng hơn 453kg. Bất chấp kích thước cơ thể đồ sộ, lợn biển vẫn di chuyển nhẹ nhàng và uyển chuyển dưới nước.
Lợn biển tiến hóa từ những động vật sống trên cạn cách đây 60 triệu năm. Môi của nó rất dày, giúp nó ngoạm được thức ăn. Hàm răng của lợn biển phát triển liên tục suốt cuộc đời.
Lợn biển không có tai ngoài nhưng tai trong của nó rất lớn giúp nó nghe tốt. Mắt của lợn biển nhỏ nhưng lại nhìn rất rõ.
Tất cả các loài động vật có vú đều có 7 đốt sống cổ trong khi lợn biển chỉ có 6 đốt. Chính vì thế mà chúng không thể quay đầu sang hai bên. Nếu muốn nhìn phía sau, lợn biển sẽ phải xoay cả cơ thể.
Lợn biển dành phần lớn thời gian ở dưới nước. Vì chúng có phổi và hít thở không khí nên cứ 3 - 4 phút lợn biển phải ngoi lên mặt nước khi chúng bơi. Còn khi nghỉ ngơi, lợn biển có thể ở dưới nước tối đa 15 phút mà không cần phải ngoi lên mặt nước.
Lợn biển rất nhạy cảm với những thay đổi về nhiệt độ nước. Nhiệt độ nước dưới 15,5°C có thể khiến lợn biển bị viêm phổi và dẫn đến tử vong.
Không giống như các loài động vật biển có vú khác, lợn biển là động vật ăn cỏ. Do cây cỏ có giá trị dinh dưỡng thấp nên lợn biển cần phải ăn tới 45kg thức ăn một ngày.
Lợn biển giao tiếp với nhau bằng một loạt những âm thanh khác nhau và phần lớn sự giao tiếp diễn ra giữa lợn biển mẹ và lợn biển con. Các loại hình giao tiếp khác gồm có: chạm, ngửi, nếm và các tín hiệu thị giác. Sự giao tiếp này diễn ra khi chúng chơi đùa hoặc diễn ra trong thời kì giao phối.