Trên đây là chia sẻ của TS Trịnh Quang Đức, Viện Điện tử - Viễn thông, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Theo TS Đức, nghiên cứu khoa học ở trường đại học, viện nghiên cứu của hầu hết các nước trên thế giới chỉ chiếm 30% số lượng nghiên cứu khoa học tại toàn quốc gia đó. Số còn lại nằm trong các công ty, doanh nghiệp... Họ tạo ra các thiết bị, công nghệ để tự phục vụ, dù ít khi công bố ra ngoài.
Trong khi đó, công tác nghiên cứu của các doanh nghiệp Việt Nam rất kém. Hầu như không có gì. Họ đổ hết cho các viện, trường đại học, dù không có thiết bị, công nghệ mà chỉ làm ra các mô hình nguyên lý.
Vì thế, chắc chắn cần có cơ chế phối hợp giữa viện, đại học với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phối hợp này không phải là dễ.
|
Ảnh minh họa. |
"Như bên bộ môn y sinh chúng tôi không có chức năng nuôi và cấy ghép lên chuột nên phải nhờ trung tâm nào đó nghiên cứu về sinh y học. Nhưng ở đó không nhiều người theo đuổi nghiệp nghiên cứu. Chúng tôi đành tự làm. Tất nhiên, để đạt kết quả chúng tôi lại phải tự mày mò tìm hiểu về tế bào, nuôi chuột... Điều này làm giá thành đội lên, hiệu quả đầu tư không cao", TS Trịnh Quang Đức cho hay.
Lỗi của vấn đề này, theo ông Đức là do cơ chế kích thích nghiên cứu khoa học chưa có. Chúng ta chưa có sự bắt buộc người có học hàm học vị cũng phải nghiên cứu. Một ông giám đốc trung tâm không nhất thiết phải có đề tài, công trình nghiên cứu hằng năm. Điều này hoàn toàn khác với nước ngoài, một vị giáo sư về y học hằng năm vẫn phải công bố các nghiên cứu khoa học. Vì thế, nếu có mô hình chuẩn, chắc hẳn sẽ phát triển được khoa học hơn nữa.