Cùng với Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ, Cố đô Lam Kinh... khu Di tích quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) là một trong những địa danh lịch sử quan trọng nhất của xứ Thanh.Đây là một quần thể gồm nhiều di tích nằm gần nhau, trong đó công trình trung tâm là đền Bà Triệu. Đền được xây dựng vào thế kỷ 6, thời vua Lý Nam Đế. Sau nhiều biến động lịch sử, tới thời vua Minh Mạng đền được di chuyển về vị trí hiện tại và có diện mạo như ngày nay.Đền Bà Triệu được xây dựng theo kiến trúc truyền thống vùng Đông Bắc Bộ, nằm trên diện tích khoảng 4 ha. Các công trình của đền từ ngoài vào trong là nghi môn ngoại, hồ nước, bình phong, nghi môn trung, nghi môn nội, tả hữu mạc, tiền đường, trung đường và hậu cung.Ngày nay, đền Bà Triệu nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng mang đậm tinh thần yêu nước của người Việt. Lễ hội đền Bà được tổ chức từ ngày 21 - 24 tháng 2 Âm lịch với nhiều hoạt động truyền thống như tế lễ, rước kiệu, tế nữ quan, lễ Mộc dục, tế Phụng Nghinh...Nằm trên đỉnh núi Tùng, cách đền Bà Triệu khoảng 500 mét, lăng mộ Bà Triệu là nơi an nghỉ của người nữ anh hùng xuất chúng trong sử Việt. Khu lăng nằm ở địa thế đẹp với tầm nhìn bao quát một vùng rộng lớn của xứ Thanh. Các công trình ở đây được chế tác từ đá xanh nguyên khối.Mộ phần Bà Triệu được xây vuông bốn mặt, có kích thước 1,5m x 4m, chiều cao 2,3m, mở cửa hình vòm ra 4 phía, mái tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Ngoài ra lăng mộ còn các công trình khác tháp Lăng và tháp Chúa.Nằm dưới chân núi Tùng, cạnh lối lên lăng mộ Bà Triệu có ba ngôi mộ của anh em họ Lý, người làng Bồ Điền, là tuỳ tướng đã sát cánh cùng Bà Triệu và hi sinh anh dũng trong cuộc chiến với kẻ xâm lược.Trong khu Di tích quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu còn có đình làng Phú Điền. Tại ngôi đình xây dựng vào thế kỷ 18 này, Bà Triệu được nhân dân địa phương suy tôn là Thành hoàng làng, muôn đời thờ phụng.Đình Phú Điền cũng là một công trình kiến trúc cổ có giá trị. Ngôi đền mang dáng vẻ uy nghi, được trang trí bằng những hoa văn chạm trổ trên gỗ tinh xảo. Hệ khung của đền gây ấn tượng với những hàng cột gỗ nguyên khối, vững chắc sau hàng thế kỷ tồn tại.Ngoài ra, Khu di tích đền Bà Triệu còn đền Đệ tứ với vị thần hiển thánh nhiều lần giúp nghĩa quân Bà Triệu chiến thắng kẻ thù; dấu tích miếu Bàn Thề, nơi Bà Triệu và các nghĩa sĩ cùng chung chí hướng, nguyện lập lời thề giết giặc; giếng nước cổ dưới chân núi Tùng...Theo sử sách, Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, là người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của người Việt chống quân xâm lược Ngô vào thế kỷ thứ ba. Bà được dân gian tôn vinh là Vua Bà.Dưới sự dẫn dắt của Vua Bà và các tùy tướng, cuộc khởi nghĩa lan rộng ra các vùng Giao Chỉ, kéo dài vào tận Nhật Nam. Trước tình hình đó, Ngô vương Tôn Quyền đã phải cử viên tướng Lục Dận làm Thứ sử đem quân sang đàn áp.Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân không thể chống chọi được với cường địch. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng khi mới tròn 23 tuổi.Để tưởng nhớ ân đức của Bà Triệu và các tướng sĩ, nhân dân đã lập lăng mộ và đền thờ tại các địa điểm trước đây Bà cùng nghĩa quân chiến đấu và hy sinh. Mời quý độc giả xem video: Có Một Ninh Bình Non Nước Hữu Tình Đến Thế. Nguồn: VTV Review.
Cùng với Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ, Cố đô Lam Kinh... khu Di tích quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) là một trong những địa danh lịch sử quan trọng nhất của xứ Thanh.
Đây là một quần thể gồm nhiều di tích nằm gần nhau, trong đó công trình trung tâm là đền Bà Triệu. Đền được xây dựng vào thế kỷ 6, thời vua Lý Nam Đế. Sau nhiều biến động lịch sử, tới thời vua Minh Mạng đền được di chuyển về vị trí hiện tại và có diện mạo như ngày nay.
Đền Bà Triệu được xây dựng theo kiến trúc truyền thống vùng Đông Bắc Bộ, nằm trên diện tích khoảng 4 ha. Các công trình của đền từ ngoài vào trong là nghi môn ngoại, hồ nước, bình phong, nghi môn trung, nghi môn nội, tả hữu mạc, tiền đường, trung đường và hậu cung.
Ngày nay, đền Bà Triệu nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng mang đậm tinh thần yêu nước của người Việt. Lễ hội đền Bà được tổ chức từ ngày 21 - 24 tháng 2 Âm lịch với nhiều hoạt động truyền thống như tế lễ, rước kiệu, tế nữ quan, lễ Mộc dục, tế Phụng Nghinh...
Nằm trên đỉnh núi Tùng, cách đền Bà Triệu khoảng 500 mét, lăng mộ Bà Triệu là nơi an nghỉ của người nữ anh hùng xuất chúng trong sử Việt. Khu lăng nằm ở địa thế đẹp với tầm nhìn bao quát một vùng rộng lớn của xứ Thanh. Các công trình ở đây được chế tác từ đá xanh nguyên khối.
Mộ phần Bà Triệu được xây vuông bốn mặt, có kích thước 1,5m x 4m, chiều cao 2,3m, mở cửa hình vòm ra 4 phía, mái tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Ngoài ra lăng mộ còn các công trình khác tháp Lăng và tháp Chúa.
Nằm dưới chân núi Tùng, cạnh lối lên lăng mộ Bà Triệu có ba ngôi mộ của anh em họ Lý, người làng Bồ Điền, là tuỳ tướng đã sát cánh cùng Bà Triệu và hi sinh anh dũng trong cuộc chiến với kẻ xâm lược.
Trong khu Di tích quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu còn có đình làng Phú Điền. Tại ngôi đình xây dựng vào thế kỷ 18 này, Bà Triệu được nhân dân địa phương suy tôn là Thành hoàng làng, muôn đời thờ phụng.
Đình Phú Điền cũng là một công trình kiến trúc cổ có giá trị. Ngôi đền mang dáng vẻ uy nghi, được trang trí bằng những hoa văn chạm trổ trên gỗ tinh xảo. Hệ khung của đền gây ấn tượng với những hàng cột gỗ nguyên khối, vững chắc sau hàng thế kỷ tồn tại.
Ngoài ra, Khu di tích đền Bà Triệu còn đền Đệ tứ với vị thần hiển thánh nhiều lần giúp nghĩa quân Bà Triệu chiến thắng kẻ thù; dấu tích miếu Bàn Thề, nơi Bà Triệu và các nghĩa sĩ cùng chung chí hướng, nguyện lập lời thề giết giặc; giếng nước cổ dưới chân núi Tùng...
Theo sử sách, Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, là người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của người Việt chống quân xâm lược Ngô vào thế kỷ thứ ba. Bà được dân gian tôn vinh là Vua Bà.
Dưới sự dẫn dắt của Vua Bà và các tùy tướng, cuộc khởi nghĩa lan rộng ra các vùng Giao Chỉ, kéo dài vào tận Nhật Nam. Trước tình hình đó, Ngô vương Tôn Quyền đã phải cử viên tướng Lục Dận làm Thứ sử đem quân sang đàn áp.
Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân không thể chống chọi được với cường địch. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng khi mới tròn 23 tuổi.
Để tưởng nhớ ân đức của Bà Triệu và các tướng sĩ, nhân dân đã lập lăng mộ và đền thờ tại các địa điểm trước đây Bà cùng nghĩa quân chiến đấu và hy sinh.
Mời quý độc giả xem video: Có Một Ninh Bình Non Nước Hữu Tình Đến Thế. Nguồn: VTV Review.