Danh tướng “thăng tiến” nhờ... được khen

(Kiến Thức) - Nguyễn Duy là một danh thần thời Nguyễn. Cuộc đời ông khi làm quan cũng như khi làm tướng luôn một lòng vì nước vì dân.

Đặc cách phong chức vì những lời khen
Nguyễn Duy tên chữ là Nhữ Hiền, người làng Chí Long, tổng Chính Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông là em ruột danh tướng Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Duy sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1809), niên hiệu Gia Long thứ 8. Năm Đinh Mão (1827), ông đỗ tú tài. Đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) ông đỗ cử nhân. Sau đó một năm, đời Thiệu Trị thứ 2, năm Nhâm Dần (1842) có ân khoa, ông dự thi Hội đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Năm Quý Mão (1843), Nguyễn Duy được bổ dụng Biên tu Nội các, rồi được thăng Hàn lâm viện tu soạn năm 1844.
Năm Ất Tỵ (1845), Nguyễn Duy được cử làm tri phủ phủ Tân An. Sau vì có tang bố, ông phải về cư tang.
Năm Tự Đức thứ 2, Kỷ Dậu (1849), Nguyễn Duy được điều ra làm tri phủ Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình. Quan Bố chính Quảng Bình là Trương Đăng Đệ phụng chỉ sát hạch các quan lại tỉnh Quảng Bình có ghi vào lý lịch của Nguyễn Duy những lời khen ngợi: "Ở với dân thì khoan hoà, làm việc rất thanh liêm, gìn giữ..." và đệ tên lên triều đình đặc cách thăng Nguyễn Duy lên chức biện lý (tức án sát). Vua Tự Đức tiếp nhận được sớ tâu ấy, cho đòi ông về kinh, khen ngợi và cho thăng chức Thị độc ở Nội các.
Ảnh tư liệu về quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định.
Ảnh tư liệu về quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. 
Anh dũng hy sinh
Đến năm Nhâm Tý (1852), ông lại được thăng Thị giảng học sĩ và được cử đi sứ Trung Quốc. Khi ấy, ngoài khơi có giặc Tàu cướp phá các thuyền bè ở dọc bờ biển, do đó thuyền của sứ bộ Nguyễn Duy không về được. Mãi đến năm Ất Mão (1855) ông mới về phụng mạng. Vua Tự Đức nói: "Khanh đi muôn dặm xa xôi, ba năm khó nhọc, trở về được bình yên, đã làm trọn được việc nước". Rồi nhà vua thưởng một cái trung hạng kim khánh, 50 lạng bạc và ban cho một bài thơ khen tặng uý lạo. Sau khi đi sứ về, Nguyễn Duy lại được thăng hàm Đại lý tự khanh lĩnh biện lý bộ Lại.
Năm Tự Đức thứ 9 (1856) tàu chiến Pháp đến cửa biển Đà Nẵng, Nguyễn Duy được cử cùng với ông Đào Trí nghĩ cách đắp đồn lũy để phòng giữ tàu chiến Pháp. Hoàn thành xong công việc ông lại về Kinh phụng chỉ.
Đến năm Tự Đức thứ 13 (1860), Nguyễn Duy được sung Gia Định quân thứ Tán lý đại thần trông coi việc quân sự. Năm sau (1861), quân Pháp đánh đồn Chí Hoà, bắn phá cướp bóc của cải của nhân dân. Ông ra chống cự. Quân Pháp dùng súng liên thanh bắn vào đội quân của ông, Nguyễn Duy bị trúng đạn chết tại trận. Ông hy sinh khi 53 tuổi. 
Vua Tự Đức rất thương xót, truy tặng ông Binh bộ tả tham tri, ban cho 500 quan tiền tuất để mai táng và sắc cho con cháu bao giờ đến tuổi trưởng thành sẽ do bộ tâu lên được để được bổ dụng. Năm Nhâm Tuất (1862), Nguyễn Duy được tùng tự vào miếu công thần và được thờ tại đền Trung hiếu trong làng Chí Long, tổng Chính Lộc, huyện Phong Điền cùng anh là Nguyễn Tri Phương. 

Mục sở thị vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt Nam

(Kiến Thức) - Với gần 100 tháp, chùa Bổ Đà (Việt Yên - Bắc Giang) là ngôi chùa có vườn tháp lớn nhất Việt Nam.

Dân vùng Kinh Bắc có câu: Thứ nhất là chùa Đức La, thứ nhì chùa Bổ thứ ba chùa Tràng. Trong đó chùa Bổ là chùa Bổ Đà - ngôi chùa có lịch sử từ thời Lý và từng là một trung tâm lớn của phái thiền Trúc Lâm.
Dân vùng Kinh Bắc có câu: Thứ nhất là chùa Đức La, thứ nhì chùa Bổ thứ ba chùa Tràng. Trong đó chùa Bổ là chùa Bổ Đà - ngôi chùa có lịch sử từ thời Lý và từng là một trung tâm lớn của phái thiền Trúc Lâm.
Chùa Bổ Đà có hai điểm đặc biệt so với nhiều ngôi chùa khác là còn giữ được nét kiến trúc cổ với những bức tường đất và một vườn tháp lớn lưu giữ nhục thân và xá lị của hơn 1000 tăng ni.
 Chùa Bổ Đà có hai điểm đặc biệt so với nhiều ngôi chùa khác là còn giữ được nét kiến trúc cổ với những bức tường đất và một vườn tháp lớn lưu giữ nhục thân và xá lị của hơn 1000 tăng ni.
Cổng vào chùa không theo lối tam quan như thường thấy và cũng khá nhỏ nhưng nằm dưới những tán cây um tùm tạo một cảm giác mát mẻ, yên tĩnh khiến lòng người thư thái dễ chịu khi vừa bước chân đến.
Cổng vào chùa không theo lối tam quan như thường thấy và cũng khá nhỏ nhưng nằm dưới những tán cây um tùm tạo một cảm giác mát mẻ, yên tĩnh khiến lòng người thư thái dễ chịu khi vừa bước chân đến.

Đi qua cổng ngoài là vào tới một hành lang với hai bức tường đất cổ xưa trước khi vào cổng chính.
 Đi qua cổng ngoài là vào tới một hành lang với hai bức tường đất cổ xưa trước khi vào cổng chính.
Xưa kia toàn bộ tường bao của chùa đều đắp bằng đất sét như thế này nhưng qua thời gian đến nay chỉ còn một số đoạn còn tồn tại.
 Xưa kia toàn bộ tường bao của chùa đều đắp bằng đất sét như thế này nhưng qua thời gian đến nay chỉ còn một số đoạn còn tồn tại.
Với những bức tường bằng đất sét đặc trưng này, nhiều người đã gọi chùa Bổ Đà bằng cái tên "chùa đất sét".
 Với những bức tường bằng đất sét đặc trưng này, nhiều người đã gọi chùa Bổ Đà bằng cái tên "chùa đất sét".
Cận cảnh tường đất.
 Cận cảnh tường đất.
Cổng chính của chùa xây vào thời Nguyễn theo lối kiến trúc gác chuông.
 Cổng chính của chùa xây vào thời Nguyễn theo lối kiến trúc gác chuông.
Cùng với những bức tường đất sét, vườn tháp cổ trong khuôn viên chùa cũng là một đặc trưng làm nên giá trị lịch sử văn hóa của chùa Bổ Đà.
Cùng với những bức tường đất sét, vườn tháp cổ trong khuôn viên chùa cũng là một đặc trưng làm nên giá trị lịch sử văn hóa của chùa Bổ Đà.
Hàng hàng lớp lớp các ngôi tháp nằm theo sườn núi là nơi an táng nhục thân, xá lị của 1214 vị tăng ni đã tu hành tại chùa qua hàng trăm năm. Đặc điểm để nhận dạng tháp tăng là có bình cam lộ trên đỉnh còn tháp ni thì có hình bông sen.
 Hàng hàng lớp lớp các ngôi tháp nằm theo sườn núi là nơi an táng nhục thân, xá lị của 1214 vị tăng ni đã tu hành tại chùa qua hàng trăm năm. Đặc điểm để nhận dạng tháp tăng là có bình cam lộ trên đỉnh còn tháp ni thì có hình bông sen.
Tất cả có 87 tháp cùng với 18 mộ không xây. Các tháp được xây vào nhiều thời điểm khác nhau qua các thời kỳ trải dài hàng trăm năm.
 Tất cả có 87 tháp cùng với 18 mộ không xây. Các tháp được xây vào nhiều thời điểm khác nhau qua các thời kỳ trải dài hàng trăm năm.
Với diện tích hơn 7000 m2 và chứa trong đó gần 100 ngôi tháp của nhiều thời kỳ, vườn tháp chùa Bổ Đà được đánh giá là vườn tháp lớn nhất và đẹp nhất trong các chùa chiền trên khắp nước ta.
Với diện tích hơn 7000 m2 và chứa trong đó gần 100 ngôi tháp của nhiều thời kỳ, vườn tháp chùa Bổ Đà được đánh giá là vườn tháp lớn nhất và đẹp nhất trong các chùa chiền trên khắp nước ta.











Ngắm nhìn những pho tượng khổng lồ dưới đáy đại dương

(Kiến Thức) - Tượng đồng lớn của chúa Jesus hay 500 bức tượng đặc sắc ở ngoài khơi bờ biển Cancun, Mexico... là những kiệt tác tuyệt vời do con người tạo ra.

Nhà điêu khắc người Anh Jason de Caires Taylor đã tạo ra một bảo tàng điêu khắc dưới đáy biển, với 500 bức tượng khổng lồ nằm chìm ngoài khơi bờ biển Cancun, Mexico.

Bảo tàng y học độc nhất vô nhị Việt Nam có gì?

(Kiến Thức) - Trong một không gian mang màu sắc hoài cổ, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động.

Tọa lạc tại số 41 Hoàng Dư Khương, Q. 10 TP HCM, Bảo tàng Y học cổ truyền Việt Nam - một trong số ít bảo tàng tư nhân trong nước - là nơi đem đến nhiều điều bất ngờ cho du khách tới thăm quan. Ảnh: Bàn thờ Y tổ đặt tại bảo tàng, nơi có tượng và bát vị thờ hai danh y được coi là ông tổ của Y học cổ truyền Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ 18).
Tọa lạc tại số 41 Hoàng Dư Khương, Q. 10 TP HCM, Bảo tàng Y học cổ truyền Việt Nam - một trong số ít bảo tàng tư nhân trong nước - là nơi đem đến nhiều điều bất ngờ cho du khách tới thăm quan. Ảnh: Bàn thờ Y tổ đặt tại bảo tàng, nơi có tượng và bát vị thờ hai danh y được coi là ông tổ của Y học cổ truyền Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ 18).

Ấn tượng đầu tiên về bảo tàng là phần lớn nội thất của bảo tàng được thiết kế bằng gỗ với nhiều họa tiết rất tinh xảo. Trong số đó có một khung nhà cổ được gia đình lương y Vũ Hữu Ấn ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm - Hà Nội tặng (ảnh).
Ấn tượng đầu tiên về bảo tàng là phần lớn nội thất của bảo tàng được thiết kế bằng gỗ với nhiều họa tiết rất tinh xảo. Trong số đó có một khung nhà cổ được gia đình lương y Vũ Hữu Ấn ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm - Hà Nội tặng (ảnh).

Trong không gian hoài cổ đó, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động. Ảnh: Mô hình nhà thuốc Nam với dãy kệ nhiều tầng chứa hàng chục vị thuốc khác nhau.
Trong không gian hoài cổ đó, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động. Ảnh: Mô hình nhà thuốc Nam với dãy kệ nhiều tầng chứa hàng chục vị thuốc khác nhau.

Đây là mô hình một tiệm thuốc Bắc với bộ tủ và quầy bán thuốc là bộ đồ gỗ có từ thế kỷ 19. Đặc trưng của một tiệm thuốc Bắc là chiếc tủ đựng thuốc có nhiều ngăn kéo, mỗi vị thuốc được đựng trong một ngăn kéo khác nhau. Chiếc tủ này có 9X9 (81) ngăn kéo.
Đây là mô hình một tiệm thuốc Bắc với bộ tủ và quầy bán thuốc là bộ đồ gỗ có từ thế kỷ 19. Đặc trưng của một tiệm thuốc Bắc là chiếc tủ đựng thuốc có nhiều ngăn kéo, mỗi vị thuốc được đựng trong một ngăn kéo khác nhau. Chiếc tủ này có 9X9 (81) ngăn kéo.

Thuốc được “bốc” theo đơn của các thầy thuốc, được gói trong những gói giấy gọi là “thang” thuốc đủ một lần “sắc” hay ngâm rượu.
Thuốc được “bốc” theo đơn của các thầy thuốc, được gói trong những gói giấy gọi là “thang” thuốc đủ một lần “sắc” hay ngâm rượu.

Hàng trăm loại cây thuốc đã được hệ thống hóa một cách bài bản, khoa học, bài trí rất ấn tượng.
 Hàng trăm loại cây thuốc đã được hệ thống hóa một cách bài bản, khoa học, bài trí rất ấn tượng.

Bộ sưu tập dụng cụ bào chế thuốc y học cố truyền là một nét đặc sắc khác của bảo tàng. Trong ảnh là thuyền tán - dụng cụ để tán thuốc khô thành bột.
Bộ sưu tập dụng cụ bào chế thuốc y học cố truyền là một nét đặc sắc khác của bảo tàng. Trong ảnh là thuyền tán - dụng cụ để tán thuốc khô thành bột.

Người dược sĩ sẽ ngồi trên ghế và sử hai dụng chân để quay bánh xe của thuyền tán nằm dưới đất.
Người dược sĩ sẽ ngồi trên ghế và sử hai dụng chân để quay bánh xe của thuyền tán nằm dưới đất.

Bàn nghiền có công dụng như thuyền tán, nhưng thô sơ hơn.
Bàn nghiền có công dụng như thuyền tán, nhưng thô sơ hơn.

Dao cầu là dụng cụ để cắt thuốc thành những phiến mỏng. Trong bộ sưu tập của bảo tàng có một số chiếc dao cầu được sưu tầm từ quê hương của Tuệ Tĩnh ( xã Cẩm Sơn – Cẩm Giàng – Hải Dương ) và Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn - Hà Tĩnh ).
Dao cầu là dụng cụ để cắt thuốc thành những phiến mỏng. Trong bộ sưu tập của bảo tàng có một số chiếc dao cầu được sưu tầm từ quê hương của Tuệ Tĩnh ( xã Cẩm Sơn – Cẩm Giàng – Hải Dương ) và  Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn - Hà Tĩnh ). 

Bàn cân là vật dụng không thể thiếu để xác định khối lượng các thành phần của thang thuốc. Bảo tàng có hàng chục mẫu cân khác nhau, chia thành hai loại chính là cân tây và cân ta.
Bàn cân là vật dụng không thể thiếu để xác định khối lượng các thành phần của thang thuốc. Bảo tàng có hàng chục mẫu cân khác nhau, chia thành hai loại chính là cân tây và cân ta.

Một hộp đựng các vị thuốc quý.
Một hộp đựng các vị thuốc quý.

Ván gỗ, triện gỗ để in các đơn thuốc và toa thuốc.
Ván gỗ, triện gỗ để in các đơn thuốc và toa thuốc.
 
Bình rượu thuốc. Người xưa lưu truyền phương pháp ngâm rượu để đạt được chất lượng cao nhất là phương pháp ngâm “Hạ thổ ”- nghĩa là chôn xuống đất một thời gian.
Bình rượu thuốc. Người xưa lưu truyền phương pháp ngâm rượu để đạt được chất lượng cao nhất là phương pháp ngâm “Hạ thổ ”- nghĩa là chôn xuống đất một thời gian.
Bát chén dùng trong cuộc sống hàng ngày cũng được dùng để uống thuốc sắc. Một số chén của bảo tàng là bản gốc còn lưu lại từ một số nhà thuốc cổ, trên đó còn ghi tên các nhà thuốc như hiệu Thiên Hòa Đường cách đây 100 năm.
Bát chén dùng trong cuộc sống hàng ngày cũng được dùng để uống thuốc sắc. Một số chén của bảo tàng là bản gốc còn lưu lại từ một số nhà thuốc cổ, trên đó còn ghi tên các nhà thuốc như hiệu Thiên Hòa Đường cách đây 100 năm. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới