Ba cái đồn của chúa Trịnh gồm có: Đồn Trung Thuần đóng tại làng Trung Thuần (còn gọi là làng Trung Ái) nay thuộc xã Quảng Lưu. Đồn Thuận Bài đóng tại làng Thuận Bài nay thuộc xã Quảng Thuận và Đồn Ròn đóng tại vùng Ròn.
Đào kênh nối ba đồn
Đồn Ròn có nhiệm vụ án giữ Đèo Ngang và cửa Ròn. Đồn Thuận Bài là đồn tiền tiêu của Chúa Trịnh đối diện với đồn Cao Lao Hạ (nay thuộc xã Hạ Trạch) của chúa Nguyễn. Đồn Thuận Bài được trang bị mạnh, quân lính đông để đối phó trực tiếp với quân của chúa Nguyễn. Đồn Trung Thuần là đồn chính trong hệ thống đồn lũy của chúa Trịnh.
Đây cũng là nơi ở lại nghỉ ngơi của chúa Trịnh và thuộc hạ mỗi khi vào công cán vùng Bắc sông Gianh. Đồn Thuận Bài và Đồn Ròn hiện nay không còn dấu vết gì. Riêng Đồn Trung Thuần còn có một số di tích qua các địa danh gồm: Ao Cái, Chợ Cổng, Hòn Cột Cờ, đồng Mũi Súng, Xóm Kho... Vùng Ao Cá là trung tâm của Đồn Trung Thuần. Chợ Cổng là chợ họp ở cổng đồn. Hòn Cột Cờ là hòn núi có cắm cờ của chúa Trịnh.
Ba cái đồn đó tạo thành một thế chân vạc khá vững chắc để bảo vệ phần đất của Đàng Ngoài từ Đèo Ngang đến sông Gianh. Nhưng ba cái đồn này cách nhau khá xa. Vì vậy, chúa Trịnh phải tiến hành đào một hệ thống kênh đào nối liền giữa ba cái Đồn. Chúa Trịnh cho đào một kênh từ Ròn qua Xuân Kiều vào Thổ Ngọa rồi nối liền với sông Gianh. Từ sông Gianh (đoạn thuộc xã Quảng Thanh hiện nay) chúa Trịnh lại còn cho đào con kênh thứ hai qua Hướng Phương, Tô Xá rồi vào Trung Thuần.
|
Tranh minh họa. |
Ngày hội Ba Đồn
Sau khi hoàn thành hệ thống kênh đào nói trên, việc đi lại và tiếp tế giữ ba đồn trở nên dễ dàng và hết sức thuận lợi. Chúa Trịnh liền cho phép quân lính của cả Ba Đồn hàng tháng được mở ba ngày hội vào các ngày mồng sáu, mười sáu và hai mươi sáu, gọi là ngày hội Ba Đồn. Địa điểm tổ chức ngày hội lúc đầu tại đồng Quai Mõ trên bờ bắc sông Gianh (nơi gần bến đò cửa Bắc hiện nay).
Mục đích của những ngày hội Ba Đồn làm cho quân lính của cả ba Đồn được ăn chơi, nhảy múa để bớt nhớ nhà, nhớ vợ con, bản quán. Và ngày hội của ba đồn tự nhiên mang thêm nội dung mới: Ngày nhân dân trong vùng đem hàng hóa, sản phẩm đến để trao đổi mua bán, là nơi trao đổi sản phẩm tự sản tự tiêu.
Suốt thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, ngày hội Ba Đồn vẫn tiến hành đều đặn mỗi tháng ba ngày. Lúc đầu tham gia ngày hội chủ yếu là quân lính của ba đồn, nhưng dần dần nhân dân trong vùng đã trở thành lực lượng chính. Từ chỗ vui chơi của quân lính dần dần trở thành nơi trao đổi hàng hóa của nhân dân nên nó đã trở thành nội dung chính của ngày hội.
Chính vì vậy, sau khi chấm dứt thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, ngày hội ba đồn của quân lính chúa Trịnh không còn nữa, nhưng nhân dân trong vùng đã trở thành truyền thống cứ đến ngày 6, 16, 26 hằng tháng vẫn tụ hồi về đây để trao đổi hàng hóa như cũ. Và ngày hội ba đồn của quân lính chúa Trịnh trước đó đã trở thành ngày chợ phiên của nhân dân trong vùng. Và chợ đó được gọi là chợ Ba Đồn.
Năm 1954, để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, UBND huyện Quảng Trạch cho phép chợ Ba Đồn được mở thêm ba phiên nữa vào các ngày mồng một, mười một và hai mươi mốt. Từ đó tới nay chợ Ba Đồn mỗi tháng có 6 phiên. Tuy vậy, nhân dân trong vùng vẫn coi các ngày 6, 16, 26 là các phiên chợ chính và các phiên chợ đó nhân dân đến chợ đông nhất.
Ba Đồn là chợ xưa nay, tụ nhân tụ hóa mười ngày một phiên. Nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh Ba Đồn là như vậy.