Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2/2/1917 tại xã Đông Mỹ (huyện Thanh Trì, TP Hà Nội). Là một thanh niên yêu nước sớm giác ngộ cách mạng, năm 19 tuổi ông đã tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân. Năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
|
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười (1917 - 2018). |
Năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù giam tại Hỏa Lò (Hà Nội). Tháng 3/1945, ông vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh ủy Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Đỗ Mười lần lượt đảm nhận các công tác khác nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu III; Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam; Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định; Khu uỷ viên Khu III kiêm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình; Phó Bí thư liên Khu ủy III kiêm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III; chính ủy Bộ Tư lệnh Liên khu III; Bí thư Khu ủy tả ngạn Sông Hồng kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính và Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu tả ngạn Sông Hồng.
Năm 1955, ông là Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban quân chính thành phố Hải Phòng. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 3/1955) ông được bầu bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Năm 1956, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương. Đến năm 1958, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương, là đại biểu Quốc hội khoá II nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 9/1960 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông Đỗ Mười được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1961 đến 1969, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính phủ. Từ 1969 đến 1971, ông được cử giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Phủ Thủ tướng.
Năm 1971, ông là đại biểu Quốc hội khóa IV, được Quốc hội bầu giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban kiến thiết cơ bản. Từ tháng 6/1973 đến tháng 11/1977, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng, đại biểu Quốc hội khóa V, VI.
Tháng 12/1976 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp Chấp hành Trung ương và Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 1976-1981.
Tháng 7/1981, ông là đại biểu Quốc hội khóa VII và được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị và Thường trực Ban Bí thư; đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Tháng 6/1988, Quốc hội khóa VIII bầu ông Đỗ Mười giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
|
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười: Con người và Sự nghiệp |
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII, đồng chí Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (6/1991 đến 12/1997). Ông là đại biểu Quốc hội khóa IX.
Tháng 12/1997, đồng chí Đỗ Mười được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VIII) cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 12/4/2018, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười được Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương quyết định tặng Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng.
Do tuổi cao sức yếu, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã qua đời lúc 23h12 phút ngày 1/10/2018 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.