Xe thiết giáp Đức mà Indonesia mới mua có gì đặc biệt?

Google News

(Kiến Thức) - Indonesia khá "chịu chơi" khi "thửa" xe thiết giáp xung kích Marder hiện đại hàng đầu thế giới đến từ Đức.

Marder là loại xe thiết giáp xung kích do Đức chế tạo và được sử dụng bởi quân đội nước này với nhiệm vụ làm nòng cốt trong các đơn vị Panzergrenadiere (bộ binh cơ giới) từ những năm 1970 đến nay. Được phát triển với vai trò là một phần trong chương trình xe thiết giáp mới của Đức, Marder thực sự là một mẫu thiết kế xe thiết giáp xung kích (IFV) thành công, trong đó bên cạnh việc sở hữu các tính năng độc đáo như súng máy điểu khiển từ xa được khai hỏa từ xạ thủ ngồi trong xe thì Marder vẫn giữ thiết kế không phức tạp và khá cơ bản với cửa ra vào phía sau xe và lính bộ binh có thể bắn qua khe châu mai trên xe.
Marder trong Quân đội Đức thời chiến tranh Lạnh.
Quá trình phát triển Marder bắt đầu từ năm 1960 với những chiếc xe đầu tiên được bàn giao cho Quân đội Đức năm 1971. Chiếc xe đợt đầu này là sự cải tiến của loại xe thiết giáp Schützenpanzer Lang HS.30. Những yêu cầu chính cần phải có là mang theo được 12 lính bộ binh, pháo 20mm đáng tin cậy, lính bộ binh phải có khả năng khai hỏa từ trong xe, có khả năng bảo vệ binh sĩ khỏi vũ khí hủy diệt lớn. Có thể nói những yêu cầu dành cho chiếc xe thiết giáp mới này học theo loại xe thiết giáp xung kích huyền thoại BMP-1 của Liên Xô ra mắt năm 1968.
Lúc đầu hợp đồng phát triển được giao cho hai công ty là Rheinstahl và công ty MOWAG của Thụy Sĩ, sau đó vào năm 1967, khi tất cả các yêu cầu cho loại xe mới được chính thức đưa ra, công việc phát triển cuối cùng được giao cho nhóm Rheinstahl. Đợt bàn giao Marder đầu tiên vào năm 1971 đến năm 1975 đã có 2.136 chiếc được sản xuất.
Marder hiện là xe thiết giáp chủ lực của Quân đội Đức.
Khả năng phòng thủ và cơ động trên chiến trường
Về thiết kế, thân xe Marder được bọc giáp thép giúp chống được các loại đạn hạng nhẹ và mảnh pháo trong khi đầu xe chống được cả đạn cỡ 20mm xuyên giáp, những phiên bản về sau còn chống được cả đạn 30mm như một sự đối đầu với pháo 30mm của xe thiết giáp BMP-2 Liên Xô.
Marder có cách sắp đặt các vị trí giống với các loại IFV (xe chiến đấu bộ binh) cùng thời như lái xe ngồi phía trước bên trái còn bên phải anh ta là vị trí khoang động cơ. Lái xe có 3 kính tiềm vọng để quan sát bên ngày còn ban đêm kính giữa sẽ được thay thế bởi kính nhìn đêm chuyên dụng. Ngồi sau lái xe là một lính bộ binh, ở phiên bản Marder đời đầu vị trí này có cửa nắp ra vào và kính nhìn toàn cảnh riêng, nhưng điều này đã bị loại bỏ ở phiên bản 1A3.
Tên lửa chống tăng MILAN trên tháp pháo bên cạnh pháo 20mm.
Ở giữa xe là tháp pháo 2 người, với trưởng xe bên phải và pháo thủ bên trái, vốn đều có cửa nắp ra vào riêng, trưởng xe có hệ thống kính tiềm vọng 8 cái giúp quan sát toàn cảnh xung quanh trong khi pháo thủ chỉ có 3 cái. Hệ thống kính ngắm quang học chính là loại PERI-Z11 với khả năng phóng to 2X hoặc 6X, khi cần kính nhìn đêm có thể lắp thay cho kính quang học. Nằm phía đuôi xe là khoang chở lính đủ cho 6 người với hai hàng ghế hướng ra ngoài (giống kiểu thiết kế ghế cho lính bộ binh trên BMP-1,2)
Marder có thể lội nước sâu 1,5m và lắp phụ kiện để lặn nước sâu 2,5m. Marder sử dụng động cơ dầu diesel 6-xylanh MTU MB Ea-500 công suất 600 mã lực, kết hợp với hộp số 4 cấp Renk HSWL 194 có 4 số tiến và 2 số lùi. Dự trữ dầu mang theo là 652 lít đảm bảo cho Marder di chuyển trên quãng đường 500km, phiên bản Marder đầu có thể chạy với tốc độ lên tới 75km/h nhưng những phiên bản về sau, vì tăng cường giáp bảo vệ khiến xe nặng hơn nên tốc độ tối đa chỉ còn 65km/h.
Cửa ra vào ở đuôi xe cho kíp bộ binh.
Marder sử dụng hệ bánh xích Diehl có gắn các “guốc” cao su. Cơ cấu lái bao gồm 6 bánh cao su chịu lực đi với một bánh dẫn động ở đầu dải xích, hệ phuộc nhún là dạng thanh xoắn cộng với thiết bị giảm xóc thủy lực lắp ở hai bánh đầu và hai bánh cuối dải xích.
Sức mạnh hỏa lực của Marder
Hỏa lực chính của Marder là pháo tự động nòng 20mm Rheinmetall MK20 Rh202 đặt trên tháp pháo 2 người có thể bắn đạn xuyên giáp và đạn nổ, bên cạnh đó là súng máy MG3 7,62mm gắn đồng trục với pháo 20mm. Pháo có thể xoay 360° và góc nâng hạ nòng là từ -17° đến 65°.
Ở phiên bản Marder đầu và bản 1A1 còn có một khẩu súng máy MG3 thứ hai đặt phía sau đặt trên giá súng được điều khiển từ xa. Cơ số đạn mang theo là 1.250 viên 20mm và 5.000 viên đạn 7,62mm cho MG3.
Tên lửa chống tăng nổi tiếng MILAN có thể tiêu diệt các loại xe tăng hiện đại được tích hợp trên Marder.
Còn từ phiên bản Marder 1A2 trở đi, nhà sản xuất đã lắp tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) MILAN lên tháp pháo nhằm tăng khả năng tấn công các phương tiện hạng nặng. Thông thường một xe sẽ mang 6 quả tên lửa MILAN.
Hỏa lực tiếp theo của Marder chính là vũ khí của binh sĩ bên trong xe, mỗi bên thành xe có 2 lỗ châu mai để họ khai hỏa vũ khí của mình, nhưng chỉ có phiên bản Marder 1A1 và 1A2 có khả năng này, vì sang mẫu Marder 1A3 đã bỏ đi khe bắn vì thân xe đã lắp thêm giáp phụ và mang theo các thùng chứa đồ bên ngoài. Bên cạnh đó là sáu ống phóng đạn khói nghi binh cỡ 76mm.
Indonesia đã nhanh chân lấy trước 2 chiếc Marder 1A3 để duyệt binh trong lô 42 chiếc đặt mua.
Marder 1A3 là phiên bản được sử dụng nhiều nhất và nó đang ở trong biên chế Quân đội Đức. Việc lắp thêm giáp, lắp thiết bị nhìn đêm mới, thay đổi cửa nắp ra vào, hệ thống phuộc nhún cũng khiến khối lượng của Marder 1A3 lên tới 35 tấn, trở thành một trong những xe thiết giáp nặng nhất thế giới (và có lẽ cũng là đắt nhất thời điểm này).
Phiên bản 1A4 khác 1A3 chỉ ở chỗ sử dụng máy truyền tin mã hóa hiện đại SEM 93. Phiên bản 1A5 mới nhất tích hợp khả năng chống mìn tân tiến, tuy vậy chỉ có số lượng ít phiên bản này được sản xuất.
Lính bộ binh cơ giới Đức tác chiến với xe Marder.
Cùng với hợp đồng mua 103 xe tăng Leopard 2, Indonesia cũng mua thêm 42 xe thiết giáp Marder 1A3, tất cả số xe này đều trong kho Quân đội Đức, hàng sẽ được giao chi Indonesia từ nằm 2014-2016 với tổng trị giá hợp đồng là 216 triệu Euro (khoảng 295 triệu USD, mỗi xe Marder có giá chừng 2 triệu USD). Trong đó 2 chiếc Marder 1A3 đã được giao cho Indonesia để nước này duyệt binh (!)
Thông số kỹ thuật:
Năm gia nhập biên chế: 1970
Kíp lái: 3 người + 6 lính đi theo
Khối lượng: 35 tấn
Dài x Rộng x Cao(m): 6,88 x 3,38 x 1,9 m
Động cơ: MTU MB 833 Ea-500 600 mã lực
Tầm hoạt động: 500km
Tốc độ tối đa: 65km/h
Vũ khí:
- 1 x Pháo 20mm
- 1 x MG3 7,62mm
- Tên lửa chống tăng MILAN
Quang Minh

Bình luận(0)