Sau khi sụp đổ, tại sao Thanh triều vẫn còn đạo quân 5 vạn người?

Nước mất nhưng quân đội vẫn còn, chuyện này nghe ngược đời nhưng trên thực tế đã xảy ra dưới thời nhà Thanh. Đạo quân này đến tận năm 1984 mới được công khai và bị giải thể.

Quân đội là sức mạnh của một đất nước, là lực lượng bảo vệ cho quốc gia đó, cho dù là vào thời cổ đại chiến đấu bằng vũ khí lạnh hay vào thời đại ngày nay, quân đội vẫn luôn là bộ phận quan trọng, chủ chốt của một quốc gia.

Nhưng hơn 100 năm trước, đã có một chuyện vô cùng ngược đời xảy ra ở Trung Quốc: Nước mất nhưng quân đội vẫn còn.

Vương triều nhà Thanh là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc, cũng là triều đại hủ bại đã mang đến nhiều đau thương cho đất nước Trung Quốc.

Với triều đại này, người dân Trung Quốc cho đến nay vẫn tồn tại những tình cảm lẫn lộn, khó có thể phân tách một cách rõ ràng.

Cách mạng nổ ra đẩy Thanh triều vào con đường diệt vong

Năm 1912, Cách mạng Tân Hợi nổ ra đã dự báo trước thời khắc kết thúc của xã hội phong kiến kéo dài suốt mấy nghìn năm lịch sử, nhà Thanh cũng theo đó mà rơi vào kết cục diệt vong.

Sự diệt vong của nhà Thanh không thể không liên quan đến một người – đó chính là Từ Hi Thái hậu. Tên thật của Từ Hi Thái hậu là Diệp Hách Na Lạp Ngọc Lan, là người thuộc dòng họ Diệp Hách Na Lạp.

Người đứng đầu dòng họ Diệp Hách Na Lạp từng để lại lời nguyền: "Phụ nữ của dòng họ Diệp Hách sẽ tiêu diệt nhà Thanh". Có lẽ lời nguyền đó đã ứng nghiệm, kể từ sau khi Từ Hi vào cung, con cháu Hoàng thất nhà Thanh ít ỏi đến đáng thương.

Sau khi sup do, tai sao Thanh trieu van con dao quan 5 van nguoi?

Chồng của Diệp Hách Na Lạp Ngọc Lan chính là Hàm Phong Đế tại vị 30 năm. Mặc dù phi tần, thiếp thất không ít nhưng ông lại chỉ có một người thừa kế là Đồng Trị.

Phải biết rằng, Hàm Phong Đế có thể sinh được Đồng Trị chứng tỏ ông phải có năng lực sinh dục, thế nhưng điều này thật sự khác biệt so với những Hoàng đế đời trước – những người có đến hơn chục người con trai, chưa kể con gái.

Đây là một điều khiến người ta nhìn vào mà không thể không đặt câu hỏi nghi ngờ. Không chỉ riêng Hàm Phong Đế, 3 vị Hoàng đế cuối thời Thanh đều có chung một "số phận" vô cùng thảm, là Hoàng đế mà không có được một người nối dõi, trong khi đó các chi khác vẫn phát triển đông đúc.

Trở lại với câu chuyện của Từ Hi Thái hậu, sau khi từng bước thâu tóm quyền lực trong triều đình, bản thân Từ Hi đã sống cuộc sống vô cùng xa hoa, vô tri, khiến Đại Thanh từng bước rơi vào vực sâu diệt vong, không thể cứu vãn.

Trong bối cảnh đó, quân đội nhà Thanh cũng ngày càng xuống cấp. Từ giữa thế kỷ 19, phẩm chất tướng lĩnh đã ngày càng xuống thấp, nạn lính ma tăng cao.

Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời nhằm cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân...

Sau khi sup do, tai sao Thanh trieu van con dao quan 5 van nguoi?-Hinh-2

Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, thiếu trung thành với triều đình trung ương.

Quân đội không phát huy được sức mạnh, đất nước loạn trong giặc ngoài, xã hội bấp bênh, bất ổn, đầy sóng gió, kinh thành Bắc Kinh phút chốc bị phá, cuối cùng triều đình nhà Thanh phải tuyên bố chấm dứt sự thống trị của mình.

Quân đội Thanh triều đã đi đâu sau khi tan rã?

Câu hỏi đặt ra là, quân đội - lực lượng quan trọng duy trì sự ổn định và vững mạnh của đất nước đã dạt về đâu sau khi triều đình sụp đổ?

Sau khi sup do, tai sao Thanh trieu van con dao quan 5 van nguoi?-Hinh-3

Vào cuối thời nhà Thanh, binh sĩ trong quân đội đa phần là người Hán, nay nhà Thanh đã mất, nhưng người Hán vẫn còn, cho nên có một số người đã đầu quân vào quân Bắc Dương, một số lại cởi giáp về quê, mai danh ẩn tích, sống qua một đời.

Nhưng khi tìm đọc sử liệu nhà Thanh, người ta mới phát hiện ra rằng vẫn còn một đạo quân có số lượng rất lớn không rõ tung tích, mãi đến năm 1984, sự thật mới được phát hiện, vậy họ đã biến mất như thế nào?

Theo phát hiện, sau chiến tranh nha phiến, Anh ép chính phủ nhà Thanh phải ký kết bản hiệp ước bất bình đẳng, buộc chính quyền nhà Thanh phải cắt nhượng đất Hồng Kông, nhưng Cửu Long thành vẫn thuộc lãnh thổ nhà Thanh.

Cửu Long thành có vị trí đặc biệt, là điểm tiếp nối giữa Hồng Kông và Trung Quốc đại lục, nếu như để Cửu Long thành bị người Anh chiếm đóng, vậy thì đại lục sẽ nguy hiểm trùng trùng. Chính quyền nhà Thanh bấy giờ đã chịu nhiều tổn thất nên đã lập tức cắt cử đội quân 1 triệu người đến đóng giữ, tu sửa tường thành kiên cố và tăng cường hỏa lực ở đó.

Song, ngay khi nghe tin chính quyền nhà Thanh sụp đổ, một phần lớn binh sĩ của đội quân này đã chọn quay về đại lục, tìm đường sinh sống, số binh sĩ lưu lại chỉ còn chưa đến 5 vạn binh sĩ.

Sau khi sup do, tai sao Thanh trieu van con dao quan 5 van nguoi?-Hinh-4

Sau khi người Anh nghe tin chính quyền nhà Thanh sụp đổ liền lập tức phát động tấn công Cửu Long thành.

Vì lợi ích của chính mình, các binh sĩ còn ở lại đã dũng cảm kháng địch, nhưng người ít chẳng thắng nổi địch nhiều, chỉ có thể vừa đánh vừa lui, cuối cùng rút về đến doanh trại Cửu Long thành, nhờ vào ưu thế về vị trí cùng hỏa lực mạnh mẽ, quân thủ thành đã đảm bảo được sự an toàn.

Bấy giờ, chính phủ Anh cũng chịu ảnh hưởng từ dư luận quốc tế, cuối cùng cũng đành tự rút quân quay về.

Mặc dù quân Anh đã rút lui, cũng không tiếp tục tấn công nữa, nhưng doanh trại Cửu Long thành khi đó lại bị cô lập, khắp bốn phía xung quanh đều thiết lập trạm kiểm soát khiến họ không thể tự do ra vào.

Trước tình thế như vậy, binh sĩ nhà Thanh đã tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, cuộc sống như vậy kéo dài suốt 75 năm.

Mãi đến năm 1984, khi hai nước Trung – Anh ký kết "Tuyên bố chung Trung – Anh", dự tính phá dỡ doanh trại Cửu Long thành, người ta mới phát hiện cư dân sống trong đó đều là hậu duệ của binh sĩ nhà Thanh.

Vào thời điểm đó, nơi đây vẫn duy trì chế độ như khi nhà Thanh còn tồn tại, có chế độ đa thê của vương triều nhà Thanh. Tuy nhiên theo hiệp ước đã ký kết, nhánh quân đội cuối cùng của nhà Thanh sau đó đã bị giải thể.

"Đệ nhất hán gian Thanh triều": Đến Từ Hi Thái hậu cũng không sợ

Không chỉ bất bình, nhân vật này còn oán than, nung nấu một kế hoạch to lớn thay đổi cục diện chính trị, kinh tế Thanh triều lúc bấy giờ.

Lý Hồng Chương là một đại thần trong triều đình nhà Thanh. Trong các chuyến thăm đến Mỹ và Châu Âu, Lý Hồng Chương cảm nhận sâu sắc sự ưu việt, vượt trội trong đường lối chính trị của các nước phương Tây, ông cảm thấy bất bình với chế độ chính trị bấy giờ của Trung Quốc.

Sau thất bại năm Giáp Ngọ (1894), các học giả vẫn luôn cho rằng Lý Hồng Chương "lấy sức một người chống lại cả một quốc gia", nhưng thực tế không phải vậy, nếu nói đúng ra, Lý Hồng Chương lúc bấy giờ là "lấy sức một người chống lại hai quốc gia" mới phải.

Trong quá trình thảo luận về Hiệp ước Mã Quan, Lý Hồng Chương từng than thở với Ito Hirobumi rằng: "Việc mà quý đại thần làm cũng chính là điều tất cả các ngài đều mong muốn, có ở trong hoàn cảnh của nhau thì mới biết được cái khó của đất nước chúng tôi, chẳng ai có thể nói thay được."

Lý Hồng Chương ngưỡng mộ Thiên hoàng Minh Trị "biết nghe lời khuyên" "biết lắng nghe ý kiến của triều thần", còn chính quyền mà ông bất mãn, chẳng cần hỏi cũng biết ra sao.

Học theo phương Tây, nung nấu ấp ủ tham vọng cải tổ Thanh triều

Sự bất bình này đã hình thành từ rất lâu, từ những năm 1870, Lý Hồng Chương đã sớm nhận ra rằng, con đường cải cách từ nông nghiệp sang công nghiệp là con đường tất yếu để cứu lấy quốc gia, cứu lấy người dân.

"Người Trung Quốc không tỏ chuyện thế giới, chỉ biết ôm khư khư con đường cũ, giấu mình sau giấy vở và khinh thường ngành công thương. Nhưng họ nào có biết, văn minh nhân loại và công thương nghiệp ấy còn quan trọng hơn những thứ giấy vở kia. Các cường quốc phương Tây phương Đông xung quanh kia cũng chẳng ngoại lệ".

Nhưng hơn 20 năm trôi qua, thậm chí sau thất bại thảm hại năm Giáp Ngọ, ngành công thương nghiệp của Trung Quốc cận đại dường như vẫn chỉ ở con số 0.

Sau hiệp ước Mã Quan, các phần tử yêu nước đã làm một câu đối tặng Lý Hồng Chương như sau: "Dương Tam dĩ tử vô Tô sửu, Lý Nhị tiên sinh thị Hán gian" (Dương Tam là người Tô Châu thường đóng vai hề tức sửu, nên được gọi là Tô sửu, Dương Tam chính là người diễn vai Tô sửu tốt nhất, còn Lý Nhị tức Lý Hồng Chương cũng chính là kẻ phản bội bán nước số một).

Ít lâu sau, Lý Hồng Chương phụng mệnh đi sứ đến Nga, đồng thời đến thăm các quốc gia Âu Mỹ. Tư tưởng cách mạng mới ở các quốc gia này đã tiến bộ ngày một xa hơn. Sau khi trở về Trung Quốc, Lý Hồng Chương trình bày lại những điều mình mắt thấy tai nghe cảm nhận:

"Người phương Tây thành lập nhà nước, chính trị và tôn giáo, những gì tôi kể ra đây, cũng giống như lời Quách Tung Đạo, Tăng Kỷ Trạch, Tiết Phúc Thành từng viết trong "Nhật ký", nhưng ngắn gọn hơn nhiều.

Trong chuyến đi lần này, tôi được đến thăm nhiều nơi, nhưng thời gian lại quá ngắn, song những gì tôi được thấy, được tìm hiểu và điều tra thì quả là trăm nghe không bằng một thấy.

Điều quan trọng nhất chính là họ trên dưới đồng lòng, một khi cả tập thể quyết tâm nhất chí, thì không gì là không làm được, tích lũy của cải để trở nên mạnh mẽ. Chính trị Trung Quốc hiện tại là một mớ hỗn độn, con đường kinh tế lại chẳng thể bắt kịp với họ. Mỗi khi nhìn vào, lòng tôi lại thêm lo lắng.

Hồ Văn Trung từng nói: "Nếu ta có tiền, thì chuyện trong thiên hạ đều có thể làm. Trước đây từng ngẫm nghĩ lời đó, đúng là giống như con đường thứ hai vậy".

Trong hoàn cảnh thất thế, lời nói và hành động của Lý Hồng Chương vẫn luôn vô cùng thận trọng. Song những điều ông nói với Ngô Vĩnh tuy có chút mơ hồ nhưng lại chẳng khó để hiểu được ý nghĩa thực sự của nó.

Lý Hồng Chương từng thẳng thắn trả lời truyền thông phương Tây rằng, mục đích chính trong chuyến đi lần này của ông là để "tìm hiểu đường lối chính trị của các quốc gia" để sau khi trở về nước, ông có thể "thay đổi, cải cách nền chính trị".

Chân dung Lý Hồng Chương.

Ủng hộ những người có tư tưởng cải tổ

Ông thừa nhận rằng, trước đây những hiểu biết của ông về "đường lối chính trị các nước" đều thông qua lời kể gián tiếp của Quách Tung Đạo, Tăng Kỷ Trạch, Tiết Phúc Thành.

Chuyến đi này, ông được tự mình quan sát, mới phát hiện ra "những điều mình thấy còn vượt xa so với những gì đã nghe". Hàm ý sau đó là, ông vừa vô cùng đồng tình với ba người Quách Tung Đạo, Tăng Kỷ Trạch và Tiết Phúc Thành nhưng chính bản thân ông cũng có những hiểu biết sâu sắc hơn.

Về ý kiến của Quách Tung Đạo, Tăng Kỷ Trạch và Tiết Phúc Thành, lấy Tiết Phúc Thành làm ví dụ. Tiết Phúc Thành phụng mệnh triều đình đi đến phương Tây, ông đã ghi chép lại 6 cuốn nhật ký tổng cộng hơn 170.000 từ.

Trong nhật ký đi sứ phương Tây, Tiết Phúc Thành chủ yếu tập trung thể hiện hai trọng điểm chính: Thứ nhất, kêu gọi triều đình nhà Thanh thực hiện cải cách nền kinh tế, xóa bỏ chế độ "quốc gia nông nghiệp" để thay thế bằng "quốc gia công nghiệp".

Thứ hai, kêu gọi nhà Thanh thực hiện cải cách trong chính trị, học tập theo các nước Anh, Ý… thực hiện chế độ "Quân dân cộng trị".

Từ điều này, không khó để hiểu được lập trường chính trị của Lý Hồng Chương là như thế nào.

Hiểu được tính tất yếu của việc thực hiên cải cách chính trị để cứu nước, Lý Hồng Chương ngày một xa cách với triều đình nhà Thanh.

Tuy rằng Lý Hồng Chương viết rất nhiều thư cho bạn ông nói về chuyến thăm các nước Âu Mỹ lần này, nhưng lại chẳng có lá thư nào đề cập đến việc cải cách chính trị. Song, chi tiết "các nước phương Tây trên dưới đồng lòng, một khi cả tập thể quyết tâm nhất chí, thì không gì là không làm được" lại được nhắc đến nhiều lần. Ý nghĩa trong câu nói đó chẳng khó để hiểu, ba người Quách Tung Đạo, Tăng Kỷ Trạch, Tiết Phúc Thành đã giải thích rõ ràng, cải cách chính trị là phương pháp tất yếu để đạt được "trên dưới một lòng"; còn Lý Hồng Chương coi "phương pháp kinh tế" là "con đường thứ hai".

Nói theo cách chúng ta ngày nay, chính là: "Chính trị phải được cải cách trước, nếu không thì cải cách kinh tế cũng khó mà thành công được."

Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực hiện duy tân Mậu Tuất, Lý Hồng Chương ra sức ủng hộ cho Đảng phái Khang Hữu Vi, cũng tự than rằng: "Khang Hữu Vi tài giỏi hơn ta, chuyện bãi bỏ khoa cử, ta đây ấp ủ mấy chục năm chẳng thành, nay ông ấy làm được, ta quả thực hổ thẹn vô cùng."

Sau này, khi Đảng Khang sụp đổ, các đối thủ chính trị tố cáo Lý Hồng Chương cũng thuộc Đảng Khang, Từ Hi Thái hậu sinh nghi, hỏi ông, Lý Hồng Chương thẳng thắn đáp:

"Thần chính thuộc Đảng Khang, chuyện phế lập thần không biết, nhưng lục bộ quả thật đáng bỏ, nếu theo cách cũ mà có thể giàu mạnh thì Trung Quốc đã thành hùng cường lâu rồi, há còn phải đợi đến bây giờ.

Nếu ai có chủ trương biến pháp đều là Đảng Khang thì thần cũng thế, thần chính là người của Đảng Khang."

Về sau, Lý Hồng Chương được giao cho cai quản vùng Lưỡng Quảng (tức Quảng Đông và Quảng Tây), tuy được lệnh bắt giữ Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, nhưng ông vẫn âm thầm bảo vệ họ thậm chí còn bí mật giữ liên lạc suốt thời gian dài.

Song, sự ủng hộ của Lý Hồng Chương với Đảng phái của Khang Hữu Vi lại bắt nguồn từ sự bi quan sâu sắc.

Ông từng nhiều lần luận bàn qua thư với người con cả của mình là Lý Kinh Phương về tương lai của cuộc duy tân, rồi kết luận rằng: "Trên triều đình… coi trọng biến pháp, gần đây cũng chỉ có nhóm người Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đứng lên, nhưng có phương pháp mà không có người thực hiện thì cũng không được, theo kẻ yếu kém thì há có nhân tài được việc, song cũng chỉ là qua loa lấy lệ mà thôi."

Về học vấn chính trị của thành viên Đảng Khang, Lý Hồng Chương cũng đánh giá rất thấp: "(Hoàng thượng) mỗi ngày bàn chuyện với quan lại trung khu, bàn chuyện học đường, chuyện công thương, coi trọng lũ vô năng, yếu đuối chẳng thể giúp đỡ, thậm chí bọn Khang Hữu Vi còn ăn cướp để làm sang thêm cái vẻ bề ngoài, nghe lệnh và phục tùng. Gần đây những sắc lệnh đều do Đảng Khang đưa ra, dùng để qua loa lấy lệ xong thực chất chả làm nên chuyện gì."

Lý Hồng Chương tuy bi quan là thế, nhưng ông vẫn không nề hà mạo hiểm bị đối thủ vạch tội là "Đảng Khang" để qua lại với Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, bởi vì ông đau đáu trong lòng việc Trung Quốc thiếu đi những nhân tài kiểu mới. Giống như ông từng chân thành nói với Ito Hirobumi rằng: "Ngày sau Khang Hữu Vi rồi sẽ làm nên chuyện lớn, nhưng với cái tầm nhìn hiện tại, thì lại chẳng làm được gì.".

Sau này khi Lương Khải Siêu đi lưu vong, Lý Hồng Chương vẫn gửi gắm, cổ vũ Lương Khải Siêu "Phải học hỏi phương Tây, phải tôi luyện chính mình đợi một ngày dốc sức cho nước nhà".

Bất bình như thế, nhưng cũng đầy hi vọng như thế, sau thất bại năm Giáp Ngọ, về mặt tư tưởng, "Hán gian" Lý Hồng Chương ngày một xa rời với triều đình nhà Thanh. Cuối cùng đến năm 1900, ông cùng Đảng Cách mạng đã cùng nhau lên kế hoạch "Độc lập cho vùng Lưỡng Quảng".  

Nhân vật khiến Gia Khánh không dám trừ khử Hòa Thân khi lên làm Hoàng đế

Nhân vật này có thể đe dọa đến sự yên ổn của Thanh triều lúc bấy giờ.

Hoà Thân (1/7/1750-22/2/1799), người tộc Nữu Hỗ Lộc, tự Trí Trai, thuộc Chính Hồng kỳ Mãn Châu, là một quyền thần, thương nhân nhà Thanh.

Nhắc tới Hoà Thân, có thể nói rằng ai ai ở Trung Quốc cũng biết đến tên ông, từ người già đến trẻ nhỏ. Hoà Thân là tham quan nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng với đời bởi lòng tham, bất kể là tiếng tốt hay tiếng xấu, nói tóm lại Hoà Thân là người nổi tiếng.

Đúng như Hoà Thân từng nói với Kỷ Hiểu Lam: "Người đời sau biết đến Hoà Thân tôi sẽ nhiều hơn biết đến Kỷ Hiểu Lam ông". Quả thật, đúng như Hoà Thân dự đoán, ông còn nổi tiếng hơn cả Kỷ Hiểu Lam.

Với thái độ đối nhân xử thế của Hoà Thân, ông không thể nào không biết mình sẽ phải gánh trên lưng cái tiếng xấu, bị người đời sau phỉ nhổ. Thế nhưng ông đã sớm chấp nhận việc này, tham một lạng bạc cũng là tham, tham mười vạn lượng bạc cũng là tham, bởi thế Hoà Thân đã lựa chọn vế sau.

Hoà Thân tham ô làm trái kỷ cương, quyền lực ngợp trời. Ở trên triều, những người phụ thuộc vào Hoà Thân chẳng phải là ít, nhưng cũng có người hết sức ngay thẳng, đấu trí đấu dũng cùng Hoà Thân, có thể kể tới những cái tên như Vương Kiệt, A Quế...

Rất nhiều người đoán rằng Kỷ Hiểu Lam và Lưu Dung chính là những người luôn đối đầu với Hòa Thân nhưng đó là bởi ảnh hưởng từ phim truyền hình. Trong lịch sử, hai người này hoàn toàn không đủ tầm sánh được với Hoà Thân, huống chi là đấu đá với ông ta.

Nhan vat khien Gia Khanh khong dam tru khu Hoa Than khi len lam Hoang de

Chân dung Hòa Thân và ảnh minh họa số tài sản mà ông ta đã tham ô.

Địa vị của Hoà Thân ở thời Càn Long trị vì

Hoà Thân được phong là Nhất đẳng Trung Tương công, giữ chức Văn Hoa điện Đại học sĩ, Nội các thủ tịch Đại học sĩ, Lĩnh ban quân cơ Đại thần, Lại bộ Thượng thư, Hộ bộ Thượng thư, Hình bộ Thượng thư, Lý phiên viện Thượng thư, Nội vụ phủ Tổng quản, Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ... lên tới vài chục chức quan, quan trọng ở đây là vài chục chứ không phải chỉ là hàng chục.

Những chức quan này đều là vị trí quan trọng của triều đình, mà một mình Hoà Thân đã kiêm nhiệm tới mấy chục chức vụ. Qua chức quan của Hoà Thân, không khó để nhìn ra Càn Long sủng ái Hoà Thân đến mức nào. Không chỉ có vậy, Càn Long còn gả cả con gái mình yêu chiều nhất là công chúa Cố Luân Hoà Hiếu cho con trai của Hoà Thân là Phong Thân Ân Đức, vậy là quan hệ đã thân lại càng thêm thân.

Nếu như bạn cho rằng Hoà Thân chỉ là một kẻ tham của tầm thường, vậy thì bạn đã lầm to.

Hoà Thân có tài năng ở rất nhiều phương diện, ông đảm nhận tới hàng chục chức quan, trên mỗi một cương vị đều khôn ngoan tài cán, hoàn thành rất tốt công việc.

Từng vị trí của của Hoà Thân đều là đầu mối then chốt quan trọng trong sự vận hành của nhà Thanh, nếu như một đầu mối then chốt xuất hiện sai sót, sẽ ảnh hưởng tới sự vận hành của đất nước.

Sự sủng ái Càn Long dành cho Hoà Thân rốt cuộc tới mức độ nào?

Nhan vat khien Gia Khanh khong dam tru khu Hoa Than khi len lam Hoang de-Hinh-2

Hình ảnh nhân vật vua Càn Long và Hòa Thân trên phim truyền hình.

Năm Gia Khánh thứ hai (năm 1797), khi Càn Long thượng triều, có để cho Hoà Thân đứng ở trên phải mình, Gia Khánh đứng ở bên trái mình. Bởi Càn Long nói rất nhỏ, Hoà Thân sẽ truyền đạt lại lời của Càn Long, bởi thế Hoà Thân nói thế nào thì phải là thế ấy.

Trên danh nghĩa, Gia Khánh là hoàng đế, thế nhưng lại chẳng có thực quyền, cũng phải nghe sự sắp xếp của Hoà Thân. Bởi thế, mọi người mới gọi Hoà Thân là "Nhị hoàng đế".

Hành động này của Hoà Thân cho dù quyền thế ngất trời, nhưng vô hình trung đã đắc tội với Gia Khánh.

Hoà Thân vốn đã tội lỗi chồng chất, khiến Gia Khánh vô cùng chán ghét ông, hiện giờ lại còn vượt mặt cả hoàng đế, đã phạm phải điều đại kỵ, làm cho Gia Khánh có ý định muốn giết Hoà Thân.

Thế nhưng Gia Khánh mãi vẫn chưa động được tới ông ta, ngoài việc Càn Long vẫn còn đang sống, còn có một người khác, ông ta mới thật sự là chỗ dựa vững chắc của Hoà Thân. Người này chính là Hòa Lâm, em trai của Hoà Thân.

Hoà Thân là một quan văn, còn Hoà Lâm là một quan võ. Hoà Lâm bình định Tây Tạng, trấn áp khởi nghĩa Miêu - Hồi vô cùng dũng mãnh, chiến công hiển hách. Hoà Lâm nắm trong tay binh quyền, điều này khiến Gia Khánh có phần kiêng kỵ.

Nếu như Gia Khánh động tới Hoà Thân, khó tránh phải cân nhắc tới cảm nhận của Hoà Lâm. Hai anh em nhà họ từ nhỏ đã sống nương tựa vào nhau, tình cảm vô cùng thắm thiết.

Nhan vat khien Gia Khanh khong dam tru khu Hoa Than khi len lam Hoang de-Hinh-3

Hòa Thân có một người em trai là quan võ rất có uy lực trong của Thanh triều, vì thế mà Gia Khánh đế cũng phải thận trọng trong từng đường đi nước bước trước khi xử tội Hòa Thân.

Nếu Gia Khánh tuỳ tiện giết Hoà Thân, sẽ ép Hoà Lâm phải đem quân tới đối đầu với ông, đây không phải là cục diện mà Gia Khánh hy vọng phải nhìn thấy, bởi thế, Gia Khánh chần chừ chưa thể ra tay. Nếu như Hoà Lâm chưa chết, Gia Khánh hoàn toàn không dám trừ khử Hoà Thân.

Năm Gia Khánh thứ tư (năm 1799), Càn Long băng hà. Mười năm ngày sau, Gia Khánh bèn công bố hai mươi tội trạng của Hoà Thân, tống Hoà Thân vào đại lao, hạ chỉ tra xét và tịch thu nhà của Hoà Thân.

Các quan viên phụng chỉ đã tìm kiếm được tổng cộng đã một tỷ lượng bạc trắng ở trong nhà Hoà Thân, ngang với thu nhập 15 năm của quốc khố nhà Thanh, chỉ nhìn vào đây đã có thể biết rằng trong nhà Hoà Thân nhiều tiền tới mức nào.

Để không bị lộ số bạc này, Hoà Thân đã giấu chúng vào trong tường, cột nhà, trong phòng giấu toàn là bạc trắng, lấp lánh phát sáng.

Sau khi Hoà Thân chết, tiền của ông đều được sung vào quốc khố, trở thành tài sản của nhà Thanh. Bởi thế người đời mới có câu: "Hoà Thân té nhào, Gia Khánh ăn no".

Gia Khánh muốn xử lăng trì Hoà Thân, thế nhưng Cố Luân Hoà Hiếu công chúa khổ sở cầu xin, cuối cùng Gia Khánh ban cho Hoà Thân được tự tử, cũng coi như được giữ toàn thân..

Kỹ năng vơ vét của cải của Hoà Thân đã đạt đến mức độ hết sức điêu luyện, có thể cung cấp vô số tiền bạc cho Càn Long tiêu xài hoang phí. Những năm cuối đời, Càn Long có vài lần xuống Giang Nam, Hoà Thân đã cung cấp cho Càn Long không ít tiền bạc, bởi vậy vô cùng được hoàng đế tin yêu.

Nếu như đổi lại là một người khác, e rằng sẽ chẳng có bản lĩnh lớn tới vậy. Hoà Thân tung hoành ngang dọc suốt thời Càn Long, muốn gió được gió, muốn mưa được mưa, thế nhưng nước đầy ắt tràn, nước tràn ắt hỏng, cuối cùng bị giết cũng là việc không nằm ngoài dự đoán. 

Tại sao Thanh triều không gây dựng lại tổ chức Cẩm y vệ?

Mới thành lập, chẳng lẽ nhà Thanh không cần đến tổ chức đặc thù như Cẩm y vệ.

Cẩm y vệ là tổ chức được Hoàng đế khai quốc nhà Minh là Chu Nguyên Chương sáng lập nên, nhiệm vụ chính của tổ chức này là điều tra tình báo, tìm và bắt giữ người, là cơ quan đặc biệt trực thuộc quyền quản lí của Hoàng đế.

Cùng với án thảm sát các vị công thần khai quốc và sự thống trị của Chu Nguyên Chương ngày một được củng cố vững chắc, Cẩm y vệ cũng dần bị bãi bỏ.

Nhưng sau khi Chu Đệ soán ngôi thành công, để phòng ngừa "dư đảng Kiến Văn" gây rắc rối về sau, ông đã lần nữa lập lại tổ chức Cẩm y vệ, trải qua sự kế tục và phát triển của các đời Hoàng đế, Cẩm y vệ đã trở thành một nét đặc trưng chính trị của vương triều nhà Minh.

Về cơ bản, nhà Thanh thừa kế chế độ của nhà Minh, nhiều cơ quan, chức vụ vẫn được giữ nguyên giống như thời nhà Minh, nhưng lại không có tổ chức Cẩm y vệ, chẳng lẽ Hoàng đế nhà Thanh không cần đến tổ chức đặc thù như họ? Câu trả lời dĩ nhiên là không.

Nhà Thanh cũng có tổ chức tương tự Cẩm y vệ

Chính quyền Mãn Thanh đến từ ngoại bang, khát khao kiểm soát dư luận và thăm dò thông tin của những người cầm quyền còn cao hơn nhà Minh rất nhiều, nhưng danh tiếng của Cẩm y vệ quá cao, nếu cứ thế kế thừa mà không thay đổi gì chắc chắn sẽ tạo nên ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội.

Tai sao Thanh trieu khong gay dung lai to chuc Cam y ve?

Ảnh minh họa.

Thế nên, Hoàng đế nhà Thanh đã áp dụng nhiều cách khác nhau để tạo nên được mô hình hiệu quả như Cẩm y vệ, trong đó chủ yếu bao gồm chế độ mật tấu và thành lập Niêm Can Xứ.

Chế độ mật tấu là để chỉ việc quan lại địa phương thông qua thượng tấu tấu sách, báo cáo trực tiếp với Hoàng đế những tin tức tình báo bí mật, bao gồm quan lại tham ô, các hành vi vi phạm pháp luật cùng xu hướng dư luận của dân chúng, đây vừa là cách để quan lại giám sát lẫn nhau, vừa là cách để Hoàng đế nắm được tình hình bên dưới, giúp củng cố hoàng quyền.

Chế độ mật tấu ra đời vào năm Thuận Trị, những năm cuối đời Hoàng đế Khang Hi rất ưu phiền vì chuyện các hoàng tử câu kết bè phái, tư lợi các nhân, tranh giành trữ vị, thêm đó quan lại hủ bại, tham quan hoành hành, vì để củng cố thêm quyền lực Hoàng gia, Khang Hi đế yêu cầu các vị quan khi dâng tấu thỉnh an phải viết thêm những chuyện bí mật mà mình biết được vào cùng.

Tuy vậy, những người có đủ tư cách để dâng tấu mật tấu với Hoàng đế Khang Hi cũng không quá nhiều, hơn thế, địa vị của những người này cũng không phải quá cao, hầu hết đều là người từng là người hầu ngày trước của Hoàng đế.

Nhà Thanh có một "chức quan đặc biệt" rất nổi tiếng được lập ra vào thời vua Khang Hi, đó chính là chức vụ "Giang Ninh chức tạo" rất nổi tiếng.

Từ thời nhà Minh chức vụ này đã là vị trí vô cùng quan trọng, một mặt phụ trách việc giám sát, đôn đốc nghề dệt may trong khu vực, một mặt phụ trách việc thu thập tin tức tình báo cho Hoàng đế, là một vị trí vô cùng đặc biệt, vào thời nhà Thanh, người có thể được đảm nhận vị trí này, chắc chắn là tâm phúc được Hoàng đế vô cùng tin tưởng.

Tai sao Thanh trieu khong gay dung lai to chuc Cam y ve?-Hinh-2

Đến thời của Ung Chính, trong ngoài triều đình đều xuất hiện rất nhiều mầm họa, đặc biệt là chính bản thân Ung Chính cũng có rất nhiều bí mật, tạo cơ hội cho những kẻ có tâm địa xấu xa tung tin đồn thất thiệt.

Nhằm củng cố quyền lực hơn nữa, Hoàng đế Ung Chính không chỉ tiếp tục áp dụng chế độ mật tấu, mà còn thiết lập ra các quy định nghiêm ngặt hơn, bao gồm kích thước của giấy, kích thước và màu sắc của tráp đựng đều có quy định cụ thể, Ung Chính Hoàng đế còn đặc biệt nhấn mạnh một điều:

Người viết mật tấu sau khi được phê hồng, thì trong thời gian quy định bắt buộc phải nộp bản tấu gốc về cho triều đình, đồng thời không được lưu giữ bản sao chép. Đây cũng là điểm khác biệt so với các mật tấu thông thường.

Ung Chính còn nới lỏng hạn chế của việc mật tấu, cho phép đại đa số các đốc phủ địa phương có quyền mật tấu trực tiếp lên Hoàng thượng, không chỉ hạn chế ở thân tín của Hoàng đế hay các quan viên trong Nội vụ phủ.

Dưới sự ngầm cho phép của Hoàng đế Ung Chính, việc các quan viên trong triều tố cáo lẫn nhau trở nên phổ biến, có người chỉ mới phạm chút sai lầm, đã ngay lập tức bị truyền đến tai Hoàng đế, cũng chính nhờ điều này nên trong thời gian Ung Chính trị vì, triều đình nhà Thanh tương đối rõ ràng, minh bạch.

Tai sao Thanh trieu khong gay dung lai to chuc Cam y ve?-Hinh-3

Đến khi Càn Long kế vị, tuy bên ngoài ông phủ định chế độ mật tấu, nhưng trên thực tế Càn Long không hoàn toàn bãi bỏ nó mà vẫn dựa vào nó để nắm bắt tình hình bên dưới.

Ngoài chế độ mật tấu, nhà Thanh còn lập nên một tổ chức đặc thù, có tên là Niêm Can Xứ.

Ngay từ khi còn là hoàng tử, Ung Chính đã phát triển và mở rộng tổ chức này, cơ quan đầu não được đặt tại Ung Chính phủ, sau này là Ung Hòa cung.

Bề ngoài, nhiệm vụ chính của Niêm Can Xứ là khi Hoàng đế đi tuần thì sẽ đảm đương các công việc hậu cần. Nhưng trên thực tế, các thành viên trong tổ chức này đều là người có thân thủ linh hoạt, hoạt bát hơn người, chuyên đảm nhận việc thu thập tin tức tình báo.

Sau khi lên ngôi, Ung Chính chuyển vào Tử Cấm Thành, ông đã thiết lập một tổ chức đặc thù trong ngự hoa viên, những người này bất cứ lúc nào cũng có thể thực hiện mệnh lệnh của Hoàng đế.

Sau khi Càn Long kế vị, Niêm Can Xứ tiếp tục tồn tại, nhưng sau khi Gia Khánh đế tru sát Hòa Thân, tổ chức này dần bị bãi bỏ, đến nay cũng không còn tìm thấy bất kỳ dấu tích nào của tổ chức này năm ấy. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới