Phan Khôi là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu. Ông sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
|
Bìa cuốn sách Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) |
Ông còn là một nhà báo tài năng, một người tích cực áp dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Ông còn nổi tiếng vì sự trực ngôn, trước 1945 được mang danh là Ngự sử văn đàn.
Sau khi Phan Khôi qua đời (năm 1959), các bản thảo viết tay chưa công bố của ông được vợ ông, bà Nguyễn Thị Huệ và các con của ông giữ gìn, bảo quản nguyên vẹn trong nhiều năm.
Cuốn sách Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành sẽ giới thiệu đến bạn đọc những trang viết mà Phan Khôi đã dồn hết trí tuệ, sức lực để viết và cống hiến cho đời; và đây cũng được xem là phần việc sau cùng để hoàn thành trọn bộ Tác phẩm Phan Khôi do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn và tái công bố suốt 27 năm qua.
Do thiếu phần chèn chữ Hán và không có điều kiện sao lục lại đầy đủ nội dung năm cuốn sổ tay ghi chép của nhân vật, vì thế, nhà xuất bản lấy nhan đề Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ).
Phan Khôi di cảo gồm hai phần: Phần Di cảo và Phần Phụ lục. Phần Di cảo gồm năm loại: Tiểu sử tự thuật, nghiên cứu, tác phẩm dịch, hồi ký lịch sử và sổ tay ghi chép.
Tiểu sử tự thuật: Gồm các bài "Tự thuật tiểu sử sơ lược", "Kiểm thảo sơ bộ", "Tự kiểm thảo". Đây là ba tài liệu ông tự tay viết trong cuộc chỉnh huấn năm 1953 trên Việt Bắc. Chỉnh huấn hồi đó chỉ có tính chất thời sự, nhưng nhờ có ba tài liệu này mà người đời sau mới biết về các mốc thời gian quan trọng của cuộc đời ông và sự phát triển tư tưởng của ông.
Nghiên cứu: gồm các bài "Cổ sử Trung Hoa bị đánh đổ", "Kiểm thảo lại cái gọi bằng dân chủ ở Trung Quốc đời xưa", "Những con số không nhất định trong từ ngữ". Để viết được bài nghiên cứu cuối cùng này, ông đã phải tích lũy các quan sát, các suy ngẫm từ lúc còn trẻ tuổi. Có đọc các bài báo ông viết hồi trước về cách viết tiếng Việt, cách đọc tiếng Việt, mới thấy bài viết này như chùm quả ngọt cuối cùng ông để lại cho đời, sau gần nửa thế kỷ cày xới, gieo trồng đầy nhọc nhằn với tất cả tâm huyết dành cho tiếng mẹ đẻ.
|
Cuốn sách Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) giới thiệu đến bạn đọc những trang viết mà Phan Khôi đã dồn hết trí tuệ, sức lực để viết và cống hiến cho đời. |
Tác phẩm dịch gồm "Bài tựa" và "Bài đạo luận" của cuốn Trung Quốc cổ đại xã hội nghiên cứu. Nguyên do ông rất muốn dịch cuốn sách của tác giả họ Quách ra tiếng Việt vì thấy nó có ích, nhưng hoàn cảnh kháng chiến không thể xuất bản một cuốn sách dày như thế, nên ông phải dịch trước phần "Bài tựa" và "Bài đạo luận" của sách ấy.
Hồi ký lịch sử gồm hai bài "Vụ xin xâu ở Quảng Nam" và "Duy Tân khởi nghĩa". Năm 1955, ở Hà Nội, ông Trần Huy Liệu, Trưởng Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa, đề nghị ông viết lại hai sự kiện quan trọng này của lịch sử cận đại Việt Nam, vì ông là nạn nhân của sự kiện thứ nhất và là nhân chứng sống của sự kiện thứ hai. Ông hoàn thành hai bài viết này vào giữa năm 1955.
Sổ tay ghi chép: Theo bản thảo chuẩn bị năm 2013, ông có năm cuốn sổ tay ghi chép. Nhưng, như đã nói ở trên, tháng 9/2019 máy tính bị hỏng, dữ liệu của năm cuốn sổ tay này bị mất hẳn, bản gốc Di cảo lại không có trong tay; nên Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) xuất bản lần này không có những mẩu ghi chép trong năm cuốn sổ tay đó.
Tuy vậy, một số mẩu ghi chép của vài cuốn trong sổ đó đã kịp đưa vào tác phẩm Nắng được thì cứ nắng - Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân văn của Phan An Sa do NXB Tri thức ấn hành năm 2013 tại Hà Nội. Vì vậy, lần này, với mong muốn lưu giữ lại những tư liệu ấy, ban biên soạn đã gom góp những mẩu ghi chép đó, đưa chung vào mục "Các cuốn sổ tay".
Thuộc phạm vi Di cảo của Phan Khôi, còn có hai tác phẩm cực kỳ quan trọng, đến nay buộc phải khẳng định là đã vĩnh viễn mất đi, không còn có cơ hội tìm lại được nữa. Đó là tác phẩm Phan Châu Trinh do chính vị lãnh tụ Phong trào Duy Tân ủy thác Phan Khôi soạn thảo vào cuối năm 1925 đầu năm 1926 tại Sài Gòn và tác phẩm ghi chép và tạp văn Phan Khôi viết từ đầu kháng chiến chống Pháp đến hòa bình lập lại.