Mời độc giả xem clip xe tăng T-62 tác chiến trong Hồng quân Liên Xô:
Xe tăng chiến đấu chủ lực T-62 là bước phát triển kế tiếp từ T-44 do cục thiết kế OKB-520 phát triển, được sản xuất hàng loạt với số lượng hơn 22.000 chiếc tại nhà máy Uralvagonzavod và tại Tiệp Khắc, Triều Tiên (theo giấy phép từ Liên Xô).
Sau khi ra đời, T-62 nhanh chóng trở thành loại tăng tiêu chuẩn trong trong các đơn vị tăng và bộ binh cơ giới của Liên Xô, từ từ thay thế cho loại T-54/T-55. Hiện nay, tuy T-62 không còn phục vụ hoặc phục vụ hạn chế ở Nga nhưng trên thế giới, vẫn có nhiều quốc gia sử dụng T-62, trong đó có cả Việt Nam.
Theo các tài liệu Nga, đầu năm 1978, Việt Nam đã đặt hàng 200 xe tăng T-62 từ Liên Xô, quá trình giao hàng được thực hiện trong những năm 1978-1979. Phần lớn xe tăng T-62 của Việt Nam được sản xuất tại Tiệp Khắc, một số được lấy từ trong biên chế quân đội Liên Xô.
|
Xe tăng chiến đấu chủ lực T-62 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ảnh: Báo QĐND. |
Xe tăng T-62 nặng 40 tấn, dài 9,34m, rộng 3,3m, cao 2,4m. Giáp bảo vệ của xe vẫn là kiểu thép thông thường như T-54/55 với mặt trước thân giày đến 102mm nghiêng 60 độ, mặt trước tháp pháo lên tới 214mm (sau tăng lên 242mm với các xe sản xuất sau năm 1972). Đánh giá chung, so với T-55 thì T-62 có lớp giáp dày hơn nhưng là không đủ để đối chọi với súng chống tăng, tên lửa chống tăng không ngừng được cải tiến. Ở các biến thể nâng cấp sau này, người ta trang bị thêm cho T-62 giáp phản ứng nổ ERA và hệ thống phòng vệ chủ động APS.
Sự cải tiến lớn nhất của T-62 so với loại tăng T-54/T-55 là ở khẩu pháo 115mm nòng trơn bắn loại đạn sơ tốc cao xuyên giáp (HV-APFSDS) với vận tốc đầu nòng lên tới 1.615m/s, tầm hiệu quả 1,6km. Mặc dù cơ số đạn tùy thuộc vào mỗi nhiệm vụ, nhưng thông thường với lượng đạn tiêu chuẩn 40 viên thì cơ cấu sẽ là 12 HV-APFSDS - 6 HEAT (đạn nổ mạnh chống tăng) - 22 HE (đạn nổ mạnh).
Cải tiến hơn T-54/55, T-62 còn có hệ thống vứt vỏ đạn tự động nhờ vào kết cấu giật lùi của pháo chính, vỏ đạn pháo sau khi được sử dụng sẽ được vứt ra ngoài thông qua một cái khe phía sau tháp pháo.
Hỏa lực phụ gồm đại liên DShK 12,7mm trên nóc tháp pháo và súng máy đồng trục pháo chính 7,62mm PKT.
|
Tháp pháo của T-62 có nhiều nét khác biệt so với T-54/55. |
Về hệ thống trinh sát, điều khiển hỏa lực, đa phần các mẫu T-62 sử dụng hệ thống kính nhìn đêm, thiết bị lái cũng như hệ thống kiểm soát hỏa lực giống như T-54/55. Mặc dù một số chiếc xe tăng T-62 được tích hợp thiết bị quan sát đêm thụ động thay cho thiết bị ngắm IR chủ động của pháo thủ, và thiết bị đo xa laser cũng được sử dụng thay cho thiết bị đo quang học.
Cũng giống như T-55, T-62 sử dụng động cơ diesel V-12 580 mã lực, giúp cho nó có thể hành trình quãng đường 320km trên địa hình khó khăn hay 450km trên đường tốt, nếu sử dụng bình xăng phụ 200L thì quãng đường tương ứng sẽ là 450km cho đường xấu và 650km cho đường tốt. T-62 còn sử dụng chung hệ thống thông hơi và tạo khói ngụy trang với dòng T-54/T-55, cũng như chia sẻ hệ thống dò tìm phóng xạ PAZ trên T-55.
Bánh xích xe được thiết kế với 5 bánh chịu lực, trong đó 3 bánh đầu tiên được lắp gần nhau trong khi khoảng cách giữa bánh thứ 3,4,5 là lớn hơn một chút. Đĩa xích nằm ở phía sau trong khi bánh dẫn hướng nằm ở phía trước, và T-62 không sử dụng các con lăn hỗ trợ.
Thông số kĩ thuật T-62 (Nguồn Wiki)
Năm sản xuất: 1961-1975 (Liên Xô); 1975-1978 (Tiệp Khắc); 1980 (CHDCND Triều Tiên)
Số lượng: >22.700 chiếc
Tổ lái: 4 người (xa trưởng, lái xe, pháo thủ và người nạp đạn)
Nặng 41,5 tấn
Dài 6.63m
Cao 2.4m
Rộng 3.52m
Động cơ: Diesel 620 mã lực
Tầm hoạt động: 450/650 km với thùng dầu phụ
Tốc độ: 50 km/h trên đường nhựa và 40–45 km/h đường gồ ghề
Giáp:
230 mm trước tháp pháo
153 mm sườn tháp pháo
97 mm sau tháp pháo
40 mm đỉnh tháp pháo
102 mm trước thân
79 mm sườn xe
46 mm đuôi xe
20 mm gầm xe
31 mm nóc xe
Pháo chính: 115mm nòng trơn
Tốc độ bắn: 3-5 viên/ phút
Nạp đạn: thủ công
Nâng hạ nòng từ -5 tới 18 độ