Ly kỳ chuyện thần Đồng Cổ báo mộng cho vua

(Kiến Thức) - Đền Thần Đồng Hà Nội – (tên khởi nguyên là Sơn Thần Đồng Cổ) hiện tọa lạc tại 353 đường Thuỵ Khuê, quận Tây Hồ. 

Đền Thần Đồng Hà Nội – (tên khởi nguyên là Sơn Thần Đồng Cổ) hiện tọa lạc tại 353 đường Thuỵ Khuê, quận Tây Hồ. Sử cũ ghi vị trí này xưa kia là bên hữu trong Đại thành, sau chùa Thánh Thọ, về sau dân đến ở đông đúc thành làng Đông Xã nay là cụm 4, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Đền đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Nhà nước, trong đền có thờ vật linh Thần Đồng.
Hội thề Trung hiếu
Đền Thần Đồng và Hội thề Trung hiếu do vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đặt ra cho các quan đại thần trong triều nhà Lý. Theo lệ đó, ngày nay hằng năm vào ngày (4/4 âm lịch) nhân dân địa phương làng Đông Xã, tức cụm 4, phường Bưởi tổ chức lễ kỷ niệm để tưởng nhớ ngày Hội thề của các triều đại ở Thăng Long xưa.
Trước khi vào lễ tế, một vị trong Ban tổ chức đọc lời thề xưa: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần linh chu diệt". Tất cả đám hội hô: "Chu diệt" ba lần. Không khí của Hội thề nghiêm trang thành kính, linh thiêng khí thế. Sau phần tế, các dòng họ và các đoàn thể vào dâng hương trước linh vị Thần miếu, nguyện giữ trọn lời thề trung hiếu như người xưa. Lễ hội kéo dài hết ngày 4/4 âm lịch.
Đền được trùng tu lại năm 1952 và năm 2010 nhân đại lễ kỷ niệm nghìn năm Thăng Long -  Hà Nội thành phố cho tu tạo lại đền với nhà Đại bái và nhà Hậu cung, trước có sân tế, mỗi bên sân có nhà dọc (6 gian) đón khách, đền hướng về phía Bắc. Khuôn viên của đền ngày xưa rất rộng, nay bị lấn chiếm còn lại khiêm tốn.
Lịch sử đền Thần Đồng được các thư tịch của ta ghi lại khá đầy đủ. Sách Việt điện u linh, của Lý Tế Xuyên ghi như sau: “Lý Thái Tông khi còn là thái tử (Phật Mã), phụng mạng vua cha là Thái Tổ đem binh đi dẹp loạn ở phía Nam (1020), đến Trường Châu đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, Thái tử chợt thấy một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử sang đánh Phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ”. Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy luôn. Hôm sau tiến quân đến đất Chiêm, trận ấy quả nhiên đại thắng. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, Thái tử bèn sai quân sửa sang lại miếu, lễ tạ, rồi xin rước thần vị về kinh đô thờ, để làm vị thần giữ nước hộ dân.      
Ở kinh đô, đang chọn đất khắp ngoại thành, chưa biết nên lập đền chỗ nào cho tốt lành thì đến đêm, Thái tử lại thấy thần báo mộng: “Xin lập đền ở bên hữu, trong đại thành, sau chùa Thánh Thọ”. Thái tử theo lời, cho hưng công xây dựng, không bao lâu đền dựng xong (1) tức là ngôi đền hiện nay. 
Thần Đồng Cổ báo mộng cho nhà vua
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm Mậu Thìn (1028) Tiên đế Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là Vua Lý Thái Tông, nhân việc mới lên ngôi xuống chiếu phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ. Trước đó là việc trước khi ba vương định làm phản cướp ngôi, vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba Vương: Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh sắp làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy vua liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm, cuộc biến đã được dẹp. Đến đây xuống chiếu giao cho Hữu ty tu sửa lại đền, vua phong cho thần là Minh chủ Chiêu cảm Bảo hựu Đại vưởng và tổ chức Hội thề Trung hiếu cho các quan đại thần trong triều. 
 Theo lệ, đến ngày đó: Đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo trước thần vị, đọc lời thề rằng: Làm con bất hiếu làm tôi bất trung xin thần minh giết chết. Các quan từ cửa Đông đi vào đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hằng năm lấy làm lệ thường vào ngày mồng 4 tháng 4 âm lịch; trong ngày Hội thề ở đền thần Đồng Cổ trai gái kinh thành đi xem chật cả đường (2).
 Sang đời Trần, vua Trần Thái Tông (1226 - 1258), năm Đinh Hợi [Kiến Trung] năm thứ 3 (1227), tuyên bố: Các điều khoản về lễ Minh thệ ở đền thần Đồng Cổ vẫn theo như lệ cũ của triều Lý. Nghi thức lễ đó như sau:
Hằng năm vào ngày mồng 4 tháng 4 âm lịch, tể tướng và trăm quan đến trước cửa thành từ lúc gà gáy, tờ mờ sáng thì tiến vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang điện Đại Minh trăm quan mặc nhung phục lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy đều thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần Đồng Cổ họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiềm chính tuyên đọc lời thề: Làm tôi tận trung,làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết”. Hội thề Trung hiếu ở đền thần Đồng Cổ kéo dài đến khi nhà Minh sang xâm lược nước ta mới ngừng hoạt động.
Phải chăng, từ xa xưa thời Hùng Vương vật linh này được phát tán hoặc chuyển mẫu sang đúc ở các nước (Đông Nam Á) cổ, kể cả vùng Lưỡng Quảng của Trung Quốc ngày nay? Nhưng chỉ vùng Lưỡng Quảng coi nó là trống đồng đưa ra biểu diễn, còn các nước Đông Nam Á, theo sách Lịch sử nghiên cứu trống đồng ở châu Âu của nhà Bác học Pháp L. Bezacier (1972) thì các nước Đông Nam Á đều đặt vật linh này thờ chung trong các đền (Bản dịch Tạp chí Khảo cổ học, số 20 - 1974). Riêng nước ta, từ thời Hùng Vương đã lập đền thờ Ngài trên núi Khả Lao, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa và tên ban đầu là Thần Đồng (xem bài Ý nghĩa hoa văn “Thần Đồng” Ngọc Lũ Báo KH&ĐS, số 122 Thứ 6 - 10/10/2014). 
Giá trị của Thần Đồng trong truyền thống dân tộc
Thần Đồng, vị Thần linh thiêng từng giúp tướng lĩnh và phò vua ở ngoài mặt trận, còn ở trong nội cung thần thường báo mộng cho nhà vua biết để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước. Cho nên chỉ nước ta mới có đền thờ vị thần này và cũng vì thế, mà chỉ ở nước ta mới có loại cổ vật nhỏ gọi là minh khí làm Bùa hộ mệnh đeo vào cổ, hoặc để đầu giường nằm.
Một hiện vật biểu tượng văn hóa mà bốn lần thay đổi tên: Từ “Thần Đồng”, đổi thành  “đồng cổ”, rồi “Thần Đồng Cổ” và “trống đồng”: Mỗi tên gọi như thế là thể hiện sự ứng xử của xã hội đối với hiện vật biểu tượng ấy. Đó là nền chính trị mỗi giai đoạn của tên gọi đó.
Khi gọi “Thần Đồng” là vật linh Ấn tín của thời đại Hùng Vương - Âu Lạc. Khi gọi “đồng cổ” là ngàn năm Bắc thuộc, kẻ đô hộ đã biến “Thần Đồng” Ấn tín thành thứ nhạc cụ, cho vùng Lưỡng Quảng biểu diễn là nhằm đánh mất tính tâm linh của hiện vật Ấn tín, vì đất nước của chúng ta đã bị họ cai trị. 
Khi gọi “Thần Đồng Cổ” là thời kỳ dân tộc ta giành lại được quyền tự chủ - thế kỷ thứ X,  Nhà nước tự chủ phục hồi lại vị trí “thần linh” cho Thần Đồng, coi đó là vị thần bảo quốc hộ dân - vị “Thần” chứng giám Hội thề Trung hiếu của các quan đại thần của Triều đình Thăng Long. 
Khi gọi “trống đồng” là thời kỳ thập kỷ 60 của thế kỷ XX giai đoạn “bao cấp”, mang tư tưởng vô thần, chỉ nói hiện thực, nên bỏ chữ “thần” trong thần Đồng Cổ, chỉ còn “đồng cổ” dịch là “trống đồng”. Đã trống là đánh, kèn là thổi, đem nó ra giã là vỡ mặt, bị các nhà khoa học phê phán. Nên chúng tôi đề xuất phục hồi lại tên khởi nguồn là “Thần Đồng”. 
Thần Đồng Ngọc Lũ - hiện vật văn hóa mang tính biểu tượng quốc gia từ: Văn Lang - Âu Lạc - Đại Cồ Việt - Đại Việt - Đại Nam - Việt Nam dân chủ cộng hòa - Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là kiệt tác có một không hai của nhân loại cần được tôn vinh.
Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn

Những giải mã bất ngờ về trống đồng Việt Nam

(Kiến Thức) - Thần Đồng (trống đồng) của Việt Nam khởi nguyên là vật linh (ấn tín) hay nhạc khí?

Thần Đồng (trống đồng) của Việt Nam khởi nguyên là vật linh (ấn tín) hay nhạc khí? Để trả lời được câu hỏi này, cần làm rõ một số vấn đề sau: Về nguyên tắc thì hợp kim của một loại nhạc khí là phải có 17% kim loại thiếc và không có kim loại chì: Thiếc có âm thanh đẹp, trong cứng, còn chì sẽ làm câm tiếng. Do đó, hợp kim đồng thau đúc Thần Đồng của Việt Nam kim loại thiếc chỉ có 0,5% tạo độ cứng, còn kim loại chì đến 25% - chì làm câm tiếng lại, nhưng chì mềm điền đầy các họa tiết hoa văn. Vậy Thần Đồng của Việt Nam không phải loại nhạc khí mà là Ấn tín của thời đại Hùng Vương.
Vật linh ấn tín biểu tượng vương quyền

Bên trong Dinh thự đặc biệt nhất Sài Gòn

Không chỉ có khu vực trưng bày vật dụng thời chiến, bên trong Dinh Độc Lập còn giữ nguyên hệ thống đường hầm và các phòng làm việc thời chiến.

Dinh Độc Lập (trước đây là Dinh Norodom, nay là Dinh Thống Nhất) là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng của TP.HCM, được đưa vào sử dụng từ ngày 31/10/1966. Đây là một trong những di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.
 Dinh Độc Lập (trước đây là Dinh Norodom, nay là Dinh Thống Nhất) là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng của TP.HCM, được đưa vào sử dụng từ ngày 31/10/1966. Đây là một trong những di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.

Sự thật về mối tình nổi tiếng Càn Long - Hương phi

(Kiến Thức) - Trong thế giới của các bậc đế vương, khi giai nhân quá nhiều mà chân tình hiếm hoi thì có thể coi Hương phi đã lập một kì tích lớn.

Hương Phi sinh ngày 15/9/1734 tức năm thứ 12 Ung Chính. Nàng là hậu duệ của thủy tổ Hồi giáo phái Cát Mộc Ba Nhĩ, Bỉnh Trì, Tân Cương. Gia tộc nàng là Hòa Trác vốn gọi là Hòa Trác Thị còn được gọi là Hoắc Trác Thị. Cha là A Lí Hòa Trác là Hồi bộ đài cát, anh trai là Đồ Nhĩ Đô. Gia tộc Hương Phi sống lâu đời tại Diệp Nhĩ Khương, Tân Cương, Trung Quốc.
Hương Phi sinh ngày 15/9/1734 tức năm thứ 12 Ung Chính. Nàng là hậu duệ của thủy tổ Hồi giáo phái Cát Mộc Ba Nhĩ, Bỉnh Trì, Tân Cương. Gia tộc nàng là Hòa Trác vốn gọi là Hòa Trác Thị còn được gọi là Hoắc Trác Thị. Cha là A Lí Hòa Trác là Hồi bộ đài cát, anh trai là Đồ Nhĩ Đô. Gia tộc Hương Phi sống lâu đời tại Diệp Nhĩ Khương, Tân Cương, Trung Quốc.
Tháng 5/1755, tức năm thứ 20 Càn Long, triều Thanh cho quân đến dẹp quân phản loạn ở A Mộc Nhĩ Tản Nạp, Tân Cương, giải cứu hai con trai của Mặc Đặc là Ba La Ni Đô và Hoắc Tập Chiếm (đại tiểu Hòa Trác). Nhưng hai người này đã không biết cảm tạ ân đức, lấy oán báo ân, tập hợp binh mã tạo phản, phản đối triều đình, chia rẽ tố quốc. Gia tộc nàng Hương Phi đều phản đối tạo phản, ủng hộ triều đình, không chịu tuân theo đại tiểu Hòa Trác nên buộc phải xa xứ. Cả nhà nàng di chuyển từ Diệp Nhĩ Khương phía nam của Thiên Sơn lên Y Lê phía bắc Thiên Sơn định cư sinh sống.

Tháng 5/1755, tức năm thứ 20 Càn Long, triều Thanh cho quân đến dẹp quân phản loạn ở A Mộc Nhĩ Tản Nạp, Tân Cương, giải cứu hai con trai của Mặc Đặc là Ba La Ni Đô và Hoắc Tập Chiếm (đại tiểu Hòa Trác). Nhưng hai người này đã không biết cảm tạ ân đức, lấy oán báo ân, tập hợp binh mã tạo phản, phản đối triều đình, chia rẽ tố quốc. Gia tộc nàng Hương Phi đều phản đối tạo phản, ủng hộ triều đình, không chịu tuân theo đại tiểu Hòa Trác nên buộc phải xa xứ. Cả nhà nàng di chuyển từ Diệp Nhĩ Khương phía nam của Thiên Sơn lên Y Lê phía bắc Thiên Sơn định cư sinh sống.

Hai năm sau (1757), nhà Thanh lại phái quân đến dẹp loạn, mùa thu năm 1759 tức năm thứ 24 Càn Long, đám phản loạn Đại Tiểu Hòa Trác bị dẹp tan. Trong đó có công rất lớn của Ngũ thúc, Lục thúc, anh trai và gia quyến của Hương Phi. Họ được triệu về Bắc Kinh, phong quan tấn tước, mở tiệc chiêu đãi, triều đình còn xây Hồi Tử cung cho họ ở. Hương Phi cũng theo gia đình đến Bắc Kinh.
Hai năm sau (1757), nhà Thanh lại phái quân đến dẹp loạn, mùa thu năm 1759 tức năm thứ 24 Càn Long, đám phản loạn Đại Tiểu Hòa Trác bị dẹp tan. Trong đó có công rất lớn của Ngũ thúc, Lục thúc, anh trai và gia quyến của Hương Phi. Họ được triệu về Bắc Kinh, phong quan tấn tước, mở tiệc chiêu đãi, triều đình còn xây Hồi Tử cung cho họ ở. Hương Phi cũng theo gia đình đến Bắc Kinh.  
Để cảm tạ ân đức của hoàng thượng và biểu thị lòng trung thành với triều đình, Ngạch Sắc Doãn Hòa Đồ Nhi Đô đã quyết định cho nàng Hương Phi thông minh xinh đẹp tiến cung. Vào ngày 4/2/1760, tức năm thứ 25 Càn Long, hoàng đế đã phong ngay nàng là quý nhân không phải qua "thường tại" và "đáp ứng", chứng tỏ Càn Long rất coi trọng chuyện này.
Để cảm tạ ân đức của hoàng thượng và biểu thị lòng trung thành với triều đình, Ngạch Sắc Doãn Hòa Đồ Nhi Đô đã quyết định cho nàng Hương Phi thông minh xinh đẹp tiến cung. Vào ngày 4/2/1760, tức năm thứ 25 Càn Long, hoàng đế đã phong ngay nàng là quý nhân không phải qua "thường tại" và "đáp ứng", chứng tỏ Càn Long rất coi trọng chuyện này.
Mọi thói quen sinh hoạt và tín ngưỡng tôn giáo của nàng đều được hoàng thượng quan tâm và coi trọng. Càn Long còn cho mời đầu bếp đạo Hồi vào cung để nấu ăn cho nàng. Nơi Viên Minh Viên nàng sống, Càn Long còn dành phương ngoại quán trong vườn cho nàng làm nơi tế lễ, đặc biệt còn cho người khắc văn “Cổ lan kinh” lên bức tường bằng đá đại lý.
Mọi thói quen sinh hoạt và tín ngưỡng tôn giáo của nàng đều được hoàng thượng quan tâm và coi trọng. Càn Long còn cho mời đầu bếp đạo Hồi vào cung để nấu ăn cho nàng. Nơi Viên Minh Viên nàng sống, Càn Long còn dành phương ngoại quán trong vườn cho nàng làm nơi tế lễ, đặc biệt  còn cho người khắc văn “Cổ lan kinh” lên bức tường bằng đá đại lý.  
Hương Phi vào cung hai năm, người trên kẻ dưới đều rất quý mến nàng. Ngày 30/12/1761, Càn Long phụng ý chỉ của Hoàng thái hậu tấn phong cho nàng từ hòa quý nhân lên Dung tần. Năm sau phong cho Đồ Nhĩ Đô anh trai nàng là phụ quốc công. Tháng Giêng năm thứ 30 Càn Long, hoàng thượng lần thứ 4 tuần thú phía nam, Dung tần và anh trai nàng cùng đồng hành. Phi tần của Càn Long rất nhiều nhưng được bồi giá xuất cung thì chỉ có mấy người. Hương Phi được tùy giá. Như vậy, có thể thấy địa vị của nàng rất quan trọng trong trái tim của hoàng thượng.
Hương Phi vào cung hai năm, người trên kẻ dưới đều rất quý mến nàng. Ngày 30/12/1761, Càn Long phụng ý chỉ của Hoàng thái hậu tấn phong cho nàng từ hòa quý nhân lên Dung tần. Năm sau phong cho Đồ Nhĩ Đô anh trai nàng là phụ quốc công. Tháng Giêng năm thứ 30 Càn Long, hoàng thượng lần thứ 4 tuần thú phía nam, Dung tần và anh trai nàng cùng đồng hành. Phi tần của Càn Long rất nhiều nhưng được bồi giá xuất cung thì chỉ có mấy người. Hương Phi được tùy giá. Như vậy, có thể thấy địa vị của nàng rất quan trọng trong trái tim của hoàng thượng.  
Vào ngày 5/6/1768, tức năm thứ 33 Càn Long, hoàng thượng phụng ý chỉ của hoàng thái hậu tấn phong cho nàng thành Dung phi, Càn Long năm thứ 36 Dung phi tùy giá tuần thú phương Đông, bái yết Khổng miếu, lên Đông Nhạc Thái Sơn. Càn Long năm thứ 43(1778), Dung phi cùng với 5 vị phi tần khác lại tiếp tục được tùy giá chiêm ngưỡng Thịnh Kinh.
Vào ngày 5/6/1768, tức năm thứ 33 Càn Long, hoàng thượng phụng ý chỉ của hoàng thái hậu tấn phong cho nàng thành Dung phi, Càn Long năm thứ 36 Dung phi tùy giá tuần thú phương Đông, bái yết Khổng miếu, lên Đông Nhạc Thái Sơn. Càn Long năm thứ 43(1778), Dung phi cùng với 5 vị phi tần khác lại tiếp tục được tùy giá chiêm ngưỡng Thịnh Kinh. 
Năm thứ 30 Càn Long, Khánh quý phi mất, năm thứ 40, Lệnh Ý hoàng quý phi mất, từ đó Càn Long cũng không sắc phong quý phi và hoàng quý phi nữa. Năm thứ 31 Càn Long, tức năm 1766, Ô Nạp La Nạp hoàng hậu mất, Càn Long không lập thêm hoàng hậu nữa. Cho nên trong hậu cung địa vi cao nhất chính là phi. Dung phi là một trong 6 nàng phi trong cung. Sau tháng 7 năm thứ 43 Càn Long(1778), Dung phi đã được thăng lên hàng thứ ba đứng sau Du phi, Dĩnh phi. Sau năm thứ 50 Càn Long (1785), có thể do sức khỏe giảm sút mà Dung phi rất ít xuất hiện, nhưng hoàng thượng vẫn thường xuyên ban thưởng quan tâm đến nàng.
 Năm thứ 30 Càn Long, Khánh quý phi mất, năm thứ 40, Lệnh Ý hoàng quý phi mất, từ đó Càn Long cũng không sắc phong quý phi và hoàng quý phi nữa. Năm thứ 31 Càn Long, tức năm 1766, Ô Nạp La Nạp hoàng hậu mất, Càn Long không lập thêm hoàng hậu nữa. Cho nên trong hậu cung địa vi cao nhất chính là phi. Dung phi là một trong 6 nàng phi trong cung. Sau tháng 7 năm thứ 43 Càn Long(1778), Dung phi đã được thăng lên hàng thứ ba đứng sau Du phi, Dĩnh phi. Sau năm thứ 50 Càn Long (1785), có thể do sức khỏe giảm sút mà Dung phi rất ít xuất hiện, nhưng hoàng thượng vẫn thường xuyên ban thưởng quan tâm đến nàng.  
Theo ghi chép của “Thưởng tứ đề bạc”, ngày 14/4/1788 năm thứ 53 Càn Long, hoàng thượng đã ban thưởng cho Dung phi 10 quả quýt, đây là lần cuối cùng tìm thấy ghi chép về việc ban thưởng cho nàng. 5 ngày sau, tức ngày 19/4/1788, nàng ra đi đột ngột tại Viên Minh Viên, thọ 55 tuổi. Có lẽ điều hối tiếc nhất của nàng là chưa sinh được con cho hoàng thượng.
Theo ghi chép của “Thưởng tứ đề bạc”, ngày 14/4/1788 năm thứ 53 Càn Long, hoàng thượng đã ban thưởng cho Dung phi 10 quả quýt, đây là lần cuối cùng tìm thấy ghi chép về việc ban thưởng cho nàng. 5 ngày sau, tức ngày 19/4/1788,  nàng ra đi đột ngột tại Viên Minh Viên, thọ 55 tuổi. Có lẽ điều hối tiếc nhất của nàng là chưa sinh được con cho hoàng thượng.
Sau khi Dung phi mất, Càn Long thường cho người trong cung tưởng nhớ nàng. Ông hạ lệnh đem những vật phẩm đã ban tặng cho nàng trong mấy chục năm qua tặng lại các công chúa, cách cách, người thân của nàng, các phi tần khác và người hầu. Kim quan của Dung phi tạm thời được quàn tại Tây Hoa Viên nằm phía bắc Sướng Xuân Viên, ngày 27/4/ cùng năm được phụng di từ Tây Hoa Viên đến quàn tại Tấn cung Tịnh An trang ngoại thành phía bắc Bắc Kinh. Ngày 17/9 cùng năm, Càn Long hạ lệnh cho Hoàng bát tử Nghị Quận Vương Vĩnh Tuyền hộ tống phụng di kim quan của Dung phi đến Đông lăng. Ngày 25/9, nàng được táng tại Phi Viên tẩm của Dụ lăng. (Trong ảnh là phần mộ của nàng tại khu Dụ lăng).
Sau khi Dung phi mất, Càn Long thường cho người trong cung tưởng nhớ nàng. Ông hạ lệnh đem những vật phẩm đã ban tặng cho nàng trong mấy chục năm qua tặng lại các công chúa, cách cách, người thân của nàng, các phi tần khác và người hầu. Kim quan của Dung phi tạm thời được quàn tại Tây Hoa Viên nằm phía bắc Sướng Xuân Viên, ngày 27/4/ cùng năm được phụng di từ Tây Hoa Viên đến quàn tại Tấn cung Tịnh An trang ngoại thành phía bắc Bắc Kinh. Ngày 17/9 cùng năm, Càn Long hạ lệnh cho Hoàng bát tử Nghị Quận Vương Vĩnh Tuyền hộ tống phụng di kim quan của Dung phi đến Đông lăng. Ngày 25/9, nàng được táng tại Phi Viên tẩm của Dụ lăng. (Trong ảnh là phần mộ của nàng tại khu Dụ lăng).
Có thể nói sự sủng ái mà Càn Long dành cho nàng Hương phi vô cùng sâu sắc. Một mặt có thể vì chính trị nhưng mặt khác chúng ta cũng không thể phủ nhận được tình cảm chân thành của hoàng thượng dành cho nàng. Tình cảm đó rất sâu sắc, đặt biệt là sau khi nàng mất, Càn Long vẫn thường xuyên thể hiện tình cảm và sự nhớ nhung với nàng. Nhưng có một điều khiến người đời thắc mắc tại sao dù được yêu quý như thế nhưng nàng lại không phải là một trong 5 vị phi tần được hợp táng cùng Càn Long. Nhưng dù thế nào thì trong thế giới của các bậc đế vương, khi người đẹp quá nhiều mà tấm chân tình lại hiếm hoi, thì đây có thể được coi là một kì tích rực rỡ của nàng Hương phi.
Có thể nói sự sủng ái mà Càn Long dành cho nàng Hương phi vô cùng sâu sắc. Một mặt có thể vì chính trị nhưng mặt khác chúng ta cũng không thể phủ nhận được tình cảm chân thành của hoàng thượng dành cho nàng. Tình cảm đó rất sâu sắc, đặt biệt là sau khi nàng mất, Càn Long vẫn thường xuyên thể hiện tình cảm và sự nhớ nhung với nàng. Nhưng có một điều khiến người đời thắc mắc tại sao dù được yêu quý như thế nhưng nàng lại không phải là một trong 5 vị phi tần được hợp táng cùng Càn Long. Nhưng dù thế nào thì trong thế giới của các bậc đế vương, khi người đẹp quá nhiều mà tấm chân tình lại hiếm hoi, thì đây có thể được coi là một kì tích rực rỡ của nàng Hương phi. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới