1. Trong một góc khuôn viên rộng lớn và tĩnh mịch của chùa Từ Hiếu - ngôi chùa nổi tiếng cách Hoàng thành Huế 7km về phía Tây Nam - có một khu n ghĩa địa cổ đặc biệt: nghĩa địa của các vị thái giám nhà Nguyễn.Khu nghĩa địa này nằm trong một mảnh đất hình chữ nhật có diện tích gần 1.000m2, được bao quanh bởi bốn bức tường dày, mặt trước trổ 3 cánh cổng lớn. Số mộ đếm được là 25 ngôi, phần lớn trong đó còn khá nguyên vẹn.Theo các sử liệu, năm 1843, dưới thời vua Thiệu Trị, thái giám Châu Phước Năng đã đứng ra quyên góp tiền trùng tu chùa Từ Hiếu, lấy đó làm chốn an nghỉ cuối cùng. Đến năm 1893, nhiều thái giám dưới vua Thành Thái tiếp tục đóng góp tiền của để tu sửa lại chùa. Từ đó, chùa Từ Hiếu dần trở thành nơi an nghỉ của các thái giám triều Nguyễn.Khu mộ có tấm bia khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám. Bia được dựng từ năm 1901 do quan đại thần Cao Xuân Dục soạn, ghi lại cả những tâm sự của các thái giám: "Trong khi sống chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên lặng, khi đau ốm chúng tôi đến lánh mình và sau khi chết được an táng cùng nhau. Sống hay chết ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh".2. Bên bờ vịnh Xuân Đài, thuộc địa phận thôn Chánh Nam, xã Xuân Thọ 1, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên ngày nay vẫn tồn tại một khu nghĩa địa cổ lạ lùng ẩn chứa nhiều bí mật chưa được giải mã. Khu nghĩa địa này nằm trên diện tích khoảng 1.000m2, với 25 ngôi mộ to lớn nằm rải rác bên các ngôi nhà của dân chài địa phương.Giữa những ngôi mộ và không gian sinh sống của con người hầu như không có ranh giới. Mộ có thể choán ngay trục đường chính của thôn, hay nằm giữa sân, bên cạnh những ngôi nhà mới xây kiên cố.Mộ ở đây được xây dựng theo 3 kiểu: hình yên ngựa, hình mu rùa, hình mái nhà. Trong đó, phổ biến nhất vẫn là loại hình yên ngựa. Phần lớn những ngôi mộ chỉ xây đắp bộ phận kiến trúc chính là nấm mộ. Song, có nhiều trường hợp có xây thành bao xung quanh, bình phong ở phía trước và các trụ biểu.Theo các nhà sử học, đây là khu mộ táng của những lớp cư dân người Việt vào thời kỳ đầu của quá trình định cư, khai khẩn, xây dựng vùng đất Phú Yên khoảng thế kỷ 17-18. Ngày nay, các ngôi mộ đang nằm trong cảnh hoang phế và bị tổn hại từng ngày do các hoạt động của con người. Những giải pháp bảo vệ khu mộ cổ độc đáo này là rất cần thiết.3. Trên một quả đồi nhỏ gần cảng Tiên Sa thuộc bán đảo Sơn Trà của TP Đà Nẵng có một di tích lịch sử khá đặc biệt. Di tích này được người Pháp gọi là đồi Hài cốt (Ossuaire), còn người dân địa phương gọi là nghĩa trang Y Pha Nho (Tây Ban Nha).Đây chính là khu nghĩa địa của những binh lính trong liên quân Pháp và Tây Ban Nha tử trận trong các cuộc tấn công đầu tiên vào cảng Đà Nẵng từ năm 1858 đến năm 1860, mở màn cho thời kỳ Pháp thuộc trên mảnh đất Việt Nam.Tâm điểm của nghĩa trang này là một ngôi nhà nguyện nhỏ. Xung quanh nhà nguyện có tất cả 32 ngôi mộ nằm ngang dọc, được đắp bằng xi măng, có kiểu dáng và kích cỡ khác nhau.Sau 2 thế kỷ, những biến cố lịch sử đau thương trên bán đảo Sơn Trà đã bị dòng thời gian xóa nhòa. Điều còn lại ở nghĩa trang cổ xưa này là một khoảng không gian thoáng đãng và bình yên, như tấm lòng rộng mở và bao dung của con người Đà Nẵng.4. Nằm ở phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, nghĩa trũng Hòa Vang hay nghĩa trang Hòa Vang được coi là nghĩa trang liệt sĩ cổ nhất của Việt Nam. Thành lập vào năm 1866, nghĩa trang là nơi quy tụ hài cốt những người lính của triều đình nhà Nguyễn tử trận trong cuộc chiến chống liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng trong năm 1858-1860.Ban đầu, nghĩa trang được lập ở xứ Trủng Bò làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ). Khoảng năm 1920, Pháp mở sân bay Đà Nẵng, nghĩa trang được dời về làng Khuê Trung. Đến năm 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay, nghĩa trang phải chuyển đến địa điểm hiện tại.Nằm trong cụm di tích rộng 2.800m2, gồm cả Nhà thờ Tiền hiền Khuê Trung, miếu Bà, giếng Chăm... nghĩa trang Hòa Vang nằm quay mặt về hướng Đông, được thiết kế theo mô hình tam ban: chính diện và tả, hữu ban. Hai bên tả hữu nghĩa trang có gần 1.300 ngôi mộ xếp cân phân, ngay thẳng.Có thể nói, nghĩa trang Hòa Vang chính là đài tôn vinh khí phách của các anh hùng nghĩa sĩ, đồng thời là cột mốc đánh dấu sự thất bại ngay trận đầu của quân Pháp khi đánh vào Đà Nẵng.Mời quý độc giả xem video: Nghe ca khúc Việt Nam quê hương tôi.
1. Trong một góc khuôn viên rộng lớn và tĩnh mịch của chùa Từ Hiếu - ngôi chùa nổi tiếng cách Hoàng thành Huế 7km về phía Tây Nam - có một khu n ghĩa địa cổ đặc biệt: nghĩa địa của các vị thái giám nhà Nguyễn.
Khu nghĩa địa này nằm trong một mảnh đất hình chữ nhật có diện tích gần 1.000m2, được bao quanh bởi bốn bức tường dày, mặt trước trổ 3 cánh cổng lớn. Số mộ đếm được là 25 ngôi, phần lớn trong đó còn khá nguyên vẹn.
Theo các sử liệu, năm 1843, dưới thời vua Thiệu Trị, thái giám Châu Phước Năng đã đứng ra quyên góp tiền trùng tu chùa Từ Hiếu, lấy đó làm chốn an nghỉ cuối cùng. Đến năm 1893, nhiều thái giám dưới vua Thành Thái tiếp tục đóng góp tiền của để tu sửa lại chùa. Từ đó, chùa Từ Hiếu dần trở thành nơi an nghỉ của các thái giám triều Nguyễn.
Khu mộ có tấm bia khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám. Bia được dựng từ năm 1901 do quan đại thần Cao Xuân Dục soạn, ghi lại cả những tâm sự của các thái giám: "Trong khi sống chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên lặng, khi đau ốm chúng tôi đến lánh mình và sau khi chết được an táng cùng nhau. Sống hay chết ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh".
2. Bên bờ vịnh Xuân Đài, thuộc địa phận thôn Chánh Nam, xã Xuân Thọ 1, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên ngày nay vẫn tồn tại một khu nghĩa địa cổ lạ lùng ẩn chứa nhiều bí mật chưa được giải mã. Khu nghĩa địa này nằm trên diện tích khoảng 1.000m2, với 25 ngôi mộ to lớn nằm rải rác bên các ngôi nhà của dân chài địa phương.
Giữa những ngôi mộ và không gian sinh sống của con người hầu như không có ranh giới. Mộ có thể choán ngay trục đường chính của thôn, hay nằm giữa sân, bên cạnh những ngôi nhà mới xây kiên cố.
Mộ ở đây được xây dựng theo 3 kiểu: hình yên ngựa, hình mu rùa, hình mái nhà. Trong đó, phổ biến nhất vẫn là loại hình yên ngựa. Phần lớn những ngôi mộ chỉ xây đắp bộ phận kiến trúc chính là nấm mộ. Song, có nhiều trường hợp có xây thành bao xung quanh, bình phong ở phía trước và các trụ biểu.
Theo các nhà sử học, đây là khu mộ táng của những lớp cư dân người Việt vào thời kỳ đầu của quá trình định cư, khai khẩn, xây dựng vùng đất Phú Yên khoảng thế kỷ 17-18. Ngày nay, các ngôi mộ đang nằm trong cảnh hoang phế và bị tổn hại từng ngày do các hoạt động của con người. Những giải pháp bảo vệ khu mộ cổ độc đáo này là rất cần thiết.
3. Trên một quả đồi nhỏ gần cảng Tiên Sa thuộc bán đảo Sơn Trà của TP Đà Nẵng có một di tích lịch sử khá đặc biệt. Di tích này được người Pháp gọi là đồi Hài cốt (Ossuaire), còn người dân địa phương gọi là nghĩa trang Y Pha Nho (Tây Ban Nha).
Đây chính là khu nghĩa địa của những binh lính trong liên quân Pháp và Tây Ban Nha tử trận trong các cuộc tấn công đầu tiên vào cảng Đà Nẵng từ năm 1858 đến năm 1860, mở màn cho thời kỳ Pháp thuộc trên mảnh đất Việt Nam.
Tâm điểm của nghĩa trang này là một ngôi nhà nguyện nhỏ. Xung quanh nhà nguyện có tất cả 32 ngôi mộ nằm ngang dọc, được đắp bằng xi măng, có kiểu dáng và kích cỡ khác nhau.
Sau 2 thế kỷ, những biến cố lịch sử đau thương trên bán đảo Sơn Trà đã bị dòng thời gian xóa nhòa. Điều còn lại ở nghĩa trang cổ xưa này là một khoảng không gian thoáng đãng và bình yên, như tấm lòng rộng mở và bao dung của con người Đà Nẵng.
4. Nằm ở phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, nghĩa trũng Hòa Vang hay nghĩa trang Hòa Vang được coi là nghĩa trang liệt sĩ cổ nhất của Việt Nam. Thành lập vào năm 1866, nghĩa trang là nơi quy tụ hài cốt những người lính của triều đình nhà Nguyễn tử trận trong cuộc chiến chống liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng trong năm 1858-1860.
Ban đầu, nghĩa trang được lập ở xứ Trủng Bò làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ). Khoảng năm 1920, Pháp mở sân bay Đà Nẵng, nghĩa trang được dời về làng Khuê Trung. Đến năm 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay, nghĩa trang phải chuyển đến địa điểm hiện tại.
Nằm trong cụm di tích rộng 2.800m2, gồm cả Nhà thờ Tiền hiền Khuê Trung, miếu Bà, giếng Chăm... nghĩa trang Hòa Vang nằm quay mặt về hướng Đông, được thiết kế theo mô hình tam ban: chính diện và tả, hữu ban. Hai bên tả hữu nghĩa trang có gần 1.300 ngôi mộ xếp cân phân, ngay thẳng.
Có thể nói, nghĩa trang Hòa Vang chính là đài tôn vinh khí phách của các anh hùng nghĩa sĩ, đồng thời là cột mốc đánh dấu sự thất bại ngay trận đầu của quân Pháp khi đánh vào Đà Nẵng.
Mời quý độc giả xem video: Nghe ca khúc Việt Nam quê hương tôi.