Xe tăng Tiger II Đức: "Đi vào vết xe đổ" Tiger I

(Kiến Thức) - Người Đức kỳ vọng xe tăng hạng nặng Tiger II giúp họ xoay chuyển được cục diện chiến trường, nhưng chúng lại tiếp bước "vết xe đổ" từ Tiger I.

Mùa hè năm 1943, các binh đoàn thiết giáp Đức đã đại bại trước Hồng quân Liên Xô trong chiến dịch Kursk. Về lí thuyết, những chiếc xe tăng hạng nặng Tiger I với pháo 88mm có thể bắn xuyên giáp trước của xe tăng hạng nặng T-34 từ cự li rất lớn 1.000-1.500m, trong khi T-34 chỉ có thể bắn xuyên giáp trước dày hơn 100mm của Tiger I từ cự li 150-200m. Nhưng thực tế chiến trường lại rất khác, những chiếc Tiger I nặng nề gần 60 tấn thép đã bị T-34 lợi dụng địa hình để cơ động bao vây, chia cắt, tạt sườn… 
Thua đau trước Hồng quân Liên Xô và mất thế chủ động trên chiến trường, phát xít Đức đẩy mạnh việc chế tạo mẫu xe tăng mới mạnh mẽ hơn. Cũng giống như Tiger I, Henschel & Son đảm nhận việc thiết kế và cho ra đời xe tăng hạng nặng Tiger II. Loại xe này còn được biết đến với cái tên “King Tiger” (Hổ vương).
Xe tang Tiger II Duc:
Cận cảnh một chiếc Tiger II bị tiêu diệt trên chiến trường 
Đi vào vết xe đổ Tiger I
Nhìn chung, cấu hình vận động của Tiger II tương tự với Tiger I, kíp chiến đấu vẫn giữ nguyên 5 người, nhưng có thay đổi nhiều về giáp. Điều đó dẫn đến kích thước và khối lượng xe tăng vọt. 
Tiger II dài đến 10,26m (kể cả nòng pháo), rộng 3,75m, cao 3,09m, và nặng đến 69,7 tấn. Đó là một con số khủng khiếp, nhất là với điều kiện đường sá, cầu phà thời bấy giờ. Dĩ nhiên, giáp của xe cũng được tăng cường hơn nhiều so với Tiger I. Ở các vị trí có nhiều khả năng trúng đạn như tháp pháo, thân trước… sẽ được bọc giáp dày từ 100-180mm, còn ở các vị trí khác sẽ là từ 40-80mm. 
Tuy nhiên, độ nghiêng của giáp là không lớn, có thể nói là gần như đặt thẳng đứng so với phương ngang, hạn chế phần nào khả năng chống đạn xuyên giáp của xe. Thêm vào đó, trong giai đoạn cuối cuộc chiến, người Đức rất thiếu nguyên liệu, đặc biệt là mangan để làm giáp xe tăng. Họ buộc phải sử dụng loại thép carbon cao, cứng nhưng rất giòn, làm giảm hiệu quả phòng vệ của xe.
Dù có trọng lượng rất lớn, nhưng động cơ của tăng hạng nặng Tiger II lại chỉ là loại chạy xăng V-12 Maybach HL 230 P30 công suất 690 mã lực. Tỉ số công suất/khối lượng chỉ là 9,8 mã lực/tấn (để so sánh, xe tăng hạng nặng IS-2 của Liên Xô nặng 51 tấn được trang bị động cơ 600 mã lực, tỉ số đạt 11,8 mã lực/tấn) nên xe di chuyển rất chậm. Tốc độ hành quân trên đường tốt là 38km/h và giảm rất mạnh trong điều kiện việt dã, chỉ đạt từ 15-20km/h. Tầm hoạt động cũng bị giới hạn còn 120-170km, tùy điều kiện đường. 
Có thể hiểu rằng, Tiger II không được thiết kế cho mục đích đột phá tấn công, mà chủ yếu là phòng ngự như một “lô cốt di động”. Một phần do lúc này, Hồng quân Liên Xô cũng đã chuyển sang phản công mạnh trên các chiến trường. Tiger II cũng sử dụng giảm xóc dạng nhún cổ rùa, nhưng nhìn chung không hiệu quả vì khối lượng xe rất lớn.
Xe tang Tiger II Duc:
 Đội hình xe tăng Tiger II của tiểu đoàn tăng hạng nặng SS số 501.
Về hỏa lực, Tiger II sử dụng pháo chính Kwk 43 L/71 cỡ nòng 88mm, kết hợp với kính ngắm TZF-9d, cho độ chính xác rất cao. Với một mục tiêu giả định xe tăng đối phương cao 2m, rộng 2,5m, xác suất bắn trúng của pháo là gần 100% ở cự li trên 1.000m, 95-97% ở cự li 1.500m và 85-87% ở cự li 2.000m. Trong thực tế chiến đấu, con số này có giảm đi nhưng vẫn đạt xác suất trúng hơn 80% ở cự li 1.000m. 
Pháo có cơ số đạn 86 viên, sử dụng nhiều loại đạn có sức công phá lớn như đạn xuyên giáp PzGr 39/43, PzGr 40/44, đạn nổ mạnh SpGr 43, đạn nổ mạnh chống tăng HlGr 39… Vũ khí phụ là hai súng máy MG 34 cỡ 7,92mm, cơ số đạn 5.850 viên.
Đã có 1.500 chiếc Tiger II được đặt hàng sản xuất. Nhưng lúc này, Chiến tranh Thế giới thứ hai đã đi vào giai đoạn cuối, nên chỉ có 485 xe xuất xưởng trước khi phát xít Đức đầu hàng. Các nhà máy thường xuyên bị ném bom, việc sản xuất bị gián đoạn liên tục. 
Trên chiến trường, Tiger II được biên chế trong các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng với số lượng 45 xe (ban chỉ huy tiểu đoàn 3 xe, ba đại đội, mỗi đại đội gồm ba trung đội 4 xe). Với giáp khá dày và hỏa lực mạnh, các xe Tiger II cũng đã lập được một số thành tích. Nhưng nhìn chung, số lượng của chúng quá ít ỏi để tạo ra đột biến trên chiến trường. Và thêm nữa, bên phía Hồng quân - đối thủ chính của tăng thiết giáp Đức - cũng đã kịp cho ra đời chiếc IS-2, loại xe tăng hạng nặng rất mạnh mẽ, mang pháo 122mm D-25T có sức xuyên vượt trội.
"Ngậm trái đắng" trước IS-2
Thực tiễn chiến đấu cho thấy những mẫu xe tăng hạng nặng mới như IS-2 đã áp đảo hoàn toàn Tiger II. Hai loại xe tăng này đã chạm trán nhau vào trung tuần tháng 8/1944, trong chiến dịch chiếm bàn đạp vượt sông Vistula ở Ogledow, Ba Lan. 
Thời điểm đó, Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 501 của Đức đã tham gia đánh chặn đội hình vượt sông của hồng quân. Dù có rất nhiều lợi thế về địa hình phòng thủ, song các Tiger II đã bị lực lượng xe tăng IS-2 Liên Xô áp đảo. Với pháo lớn hơn hẳn, các xe IS-2 đứng trên bờ sông, phơi bày giáp trước về phía địch, bắn xuyên mặt trước của các “Hổ vương” ở cự li 700-1.000m, buộc các xe còn sống sót phải ẩn nấp, tạo điều kiện để Hồng quân chiếm bàn đạp, lập đầu cầu vượt sông.
Xe tang Tiger II Duc:
 Một xác xe tăng Tiger II bị bắn cháy trong trận vượt sông Vistula.
Có thể nói, xe tăng hạng nặng Tiger II đã đi vào đúng vết xe đổ của Tiger I, đó là chế tạo một loại xe tăng quá đắt đỏ nhưng lại không hiệu quả. Thế mạnh của ngành công nghiệp Đức là khả năng gia công chính xác cao, nhưng trong điều kiện thời chiến, việc sử dụng ưu thế này đôi khi sẽ cho ra đời những lại vũ khí quá phức tạp, nặng nề, dễ hỏng hóc và sẽ bị áp đảo bởi số lượng lớn hơn của phía đối phương.

Soi tiêm kích lợi hại nhất của nước Anh trong CTTG 2

(Kiến Thức) - Tiêm kích đánh chặn Spitfire được xem là chiến đấu cơ chủ lực đáng sợ nhất của Anh trong CTTG 2, đã quét khỏi bầu trời không ít máy bay Đức.

Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2
Tiêm kích đánh chặn Spitfire là chiếc máy bay chiến đấu một chỗ ngồi được xem là thành công nhất của Không quân Anh trong CTTG 2. Nó được thiết kế chế tạo từ trước chiến tranh và cũng là chiếc máy bay duy nhất được chế tạo liên tục trong giai đoạn chiến tranh. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-2
Chuyến bay đầu tiên của Spitfire tiến hành vào ngày 5/3/1936. Nó được đưa vào phục vụ trong Không quân Hoàng gia Anh năm 1938 và tung hoành cho đến năm 1955. Trong thời gian này, có 20.351 máy bay Spitfire được chế tạo. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-3
 Theo military-history.org, ở thời điểm máy bay mới được trang bị, nhiều phi công lái Spitfire chưa quen với tính năng có thể thu càng của máy bay nên đã dẫn đến một số vụ tai nạn do họ quên thả càng trước khi hạ cánh.
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-4
Các máy bay Spitfire được thiết kế trong vai trò là một máy bay đánh chặn tầm ngắn hiệu suất cao. Để thích ứng với nhiệm vụ, các nhà phát triển sử dụng cánh hình elip giúp nó cơ động trên mặt phẳng ngang dễ dàng và tốc độ cao hơn so với một số máy bay chiến đấu thời đó. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-5
Trong chiến dịch không chiến lớn với quân Đức (thường được biết đến với cái tên The battle of Britain từ tháng 6 đến tháng 10/1940), các máy bay Spitfire đã chứng tỏ tính ưu việt của nó khi tiêu diệt được nhiều máy bay địch mà số thiệt hại thấp. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-6
 Sau chiến dịch này, Spitfire đã thay thế các máy bay Hurricane để trở thành chiến đấu cơ chủ lực của Không quân Hoàng gia Anh. Nó cũng được đưa sang thực hiện nhiều nhiệm vụ như trinh sát hình ảnh, máy bay chiến đấu – ném bom, máy bay huấn luyện chứ không chỉ đơn thuần là tiêm kích.
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-7
Theo trang web battleofbritain, máy bay tiêm kích Spitfire là kỳ phùng địch thủ của thiết kế Messerschmitt Me 109 của Đức. Sau trận không chiến lớn năm 1940, Anh đã gửi một phi đội Spitfire đến Na Uy và 10 chiếc đến Pháp để hỗ trợ. Trong ảnh là một chiếc Me109 và phía sau là chiếc Spitfire. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-8
Về hỏa lực, trang bị ban đầu của Spitfire gồm bốn khẩu súng máy Browning nhưng sau đó vào tháng 11/1938 nó được trang bị bốn khẩu pháo Oerlikon 20mm. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-9
 Theo Wikipedia, có đến 24 biến thể khác nhau của chiếc Spitfire. Trong đó kiểu MK V là thông dụng nhất với hơn 6.000 chiếc xuất xưởng. Tiếp theo đó là chiếc MK IX với hơn 5.000 chiếc được chế tạo.
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-10
Các biến thể với cánh khác nhau cũng được trang bị vũ khí khác nhau. Chẳng hạn kiểu cánh A trang bị 8 súng máy cỡ nòng 0,303 inch, kiểu cánh B chỉ có 4 súng máy loại 0,303 inch nhưng có thêm 2 khẩu pháo Hispano Suiza HS404 với cỡ nòng 20mm. 
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-11
 Trong giai đoạn phát triển đầu tiên, động cơ của Spitfire không được phun nhiên liệu trực tiếp nên nó không thể chúc đầu máy bay để bổ nhào lâu. Điều đó dẫn đến một sơ hở cho quân Đức khai thác. Các máy bay tiêm kích Đức chỉ cần bổ nhào hết ga là thoát được Spitfire.
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-12
 Sau đó phi công Anh học chiến thuật “lộn nửa vòng” máy bay trước khi bổ nhào. Đồng thời nhà chế tạo cũng khắc phục bằng một màng chắn kim loại có lỗ thủng gắn ngang buồng nổi của bộ chế hòa khí. Điều này đã cải thiện được phần nào sự thiếu hụt nhiên liệu khi bổ nhào.
Soi tiem kich loi hai nhat cua nuoc Anh trong CTTG 2-Hinh-13
Từ năm 1944, những phiên bản mới nhất của Spitfire cũng được dùng để đối phó với các cuộc tấn công bằng bom bay V-1 của Đức. Sau CTTG 2, máy bay Spitfire được giữ lại phục vụ trong không quân nhiều nước. Nó chỉ trở nên lỗi thời vào thập niên 1960 khi các máy bay phản lực trở nên phổ biến. 

Thăm “bệnh viện” của máy bay chiến đấu Việt Nam

(Kiến Thức) - Nhà máy A32 (Quân chủng Phòng không - Không quân) được ví như là “bệnh viện” của các loại máy bay chiến đấu Việt Nam gồm Su-22, Su-27, Su-30, MiG-21.

Tham “benh vien” cua may bay chien dau Viet Nam
  Nhà máy A32  (Quân chủng Phòng không-Không quân) được ví là “bệnh viện” của các loại máy bay chiến đấu Việt Nam đang ngày đêm làm nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, bảo vệ vùng trời Tổ quốc. 

Khám phá một phần kho vũ khí “khủng” của Liên Xô (2)

(Kiến Thức) - Sau pháo binh và tên lửa phòng không, hãy cùng tiếp tục khám phá các loại vũ khí Liên Xô đáng sợ bậc nhất thế giới – tên lửa đạn đạo. 

Kham pha mot phan kho vu khi “khung” cua Lien Xo (2)
  Trong chiến tranh Lạnh và hiện nay, tên lửa đạn đạo luôn là thứ vũ khí đáng sợ nhất của Liên Xô (Nga sau này). Có thể nói, kho vũ khí Liên Xô sở hữu nhiều loại tên lửa đạn đạo đa dạng nhất thế giới, vượt xạ cả Mỹ-Anh-Pháp gộp chung lại. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Pháo, Kỹ thuật và Thông tin Nga lưu giữ khá đẩy đủ các thế hệ tên lửa Liên Xô. Ảnh: xe phóng tự hành 2P129 của tổ hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật 9K79 Tochka đạt tầm bắn 70-120km. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới