Trái tim GS.TSKH.NGND Nguyễn Thừa Hợp, cựu giảng viên Khoa Toán – Cơ – Tin học, ĐHQGHN đã ngừng đập ngày 22/11. Sự ra đi của GS Hợp là mất mát to lớn đối với gia đình, đồng nghiệp và đặc biệt là nhiều thế hệ sinh viên đã được ông tận tình giảng dạy, dìu dắt trong suốt những năm tháng ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu khoa học.
GS Nguyễn Thừa Hợp luôn được biết đến như một nhà giáo mẫu mực, sống giản dị, chuẩn mực, nghiêm cẩn trong chuyên môn và nhân hậu trong cuộc sống. Ông là người thuộc thế hệ mở đường, góp những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho đào tạo Toán học đại học ở Việt Nam.
Thế hệ mở đường cho Toán học đại học Việt Nam
Hành trình khoa học của GS Nguyễn Thừa Hợp gắn với thời kỳ đầu hình thành và gây dựng nền đại học nước ta sau hòa bình lập lại. Khi Trường Đại học Sư phạm Khoa học (1954–1956) và sau đó là Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập dưới sự dẫn dắt của GS Lê Văn Thiêm, một thế hệ giảng viên tiên phong đã được hình thành để xây dựng chương trình, bài giảng và phương pháp đào tạo toán học đại học từ gần như con số không. GS Nguyễn Thừa Hợp thuộc lớp giảng viên đầu tiên ấy.
Năm 1963, khi Bộ môn Giải tích (khoa Toán, Trường ĐH Tổng hợp – nay là Khoa Toán – Cơ – Tin học, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) chính thức ra đời, ông là một trong 9 thành viên sáng lập. Nhưng trước đó, từ khi khoa Tự nhiên và sau này là khoa Toán – Lý còn đang định hình, ông đã nằm trong nhóm Giải tích nòng cốt cùng các GS Hoàng Hữu Đường và GS Phan Đức Chính trực tiếp xây dựng những viên gạch chuyên môn đầu tiên dưới sự chỉ đạo của GS Lê Văn Thiêm.
Những năm tháng ấy, khoa Toán từng trải qua nhiều giai đoạn khó khăn như sơ tán thời chiến, thiếu thốn giáo trình, thiếu tài liệu, GS Hợp cùng các giảng viên phải vừa dạy vừa tự biên soạn nhưng vẫn kiên định duy trì việc giảng dạy và nghiên cứu.
GS Nguyễn Thừa Hợp đã công bố 19 công trình nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế. Trong đó, có các bài đăng trên tạp chí toán học hàng đầu của Liên Xô như DiffU, Doklady Akad. Nauk. Các kết quả nghiên cứu đã được nhà toán học Xô Viết Bitsadze trích dẫn và sử dụng trong cuốn sách về phương trình đạo hàm riêng.
Ông là tác giả bộ sách "Phương trình đạo hàm riêng" (2 tập) và bộ giáo trình "Giải tích" (3 tập), được nhiều trường cao đẳng, đại học sử dụng rộng rãi. Đặc biệt, dù không xuất phát từ ngành Tin học, ông thành thạo các phần mềm LaTeX, Maple, CorelDraw để viết và tự chế bản đầy đủ bộ giáo trình "Giải tích" 3 tập.
Cùng với giảng dạy, ông và các đồng nghiệp trong thế hệ đầu đã góp phần xây dựng khung chương trình, hình thành một truyền thống đào tạo toán học nghiêm túc, chuyên sâu, nền tảng của Toán học hiện đại. Từ những viên gạch đầu tiên, ông và các đồng nghiệp đã góp phần quan trọng thiết lập chương trình và chuẩn mực học thuật cho khoa Toán – Cơ – Tin học về sau.
Hành trình trở thành người thầy thắp lửa
GS.TSKH Nguyễn Thừa Hợp sinh ngày 24/12/1932 trong một gia đình Tiểu tư sản ở Hạ Đình, Thanh Xuân, Hà Nội.
Theo lời kể của ông, cha ông làm thư ký bưu điện còn mẹ bươn chải bằng nghề buôn bán vải ở Hà Nội. Từ nhỏ ông đã có đam mê với việc học và đọc sách. Ông đặc biệt thích học những môn tự nhiên, nhất là môn toán. Điểm thi môn toán của ông luôn thuộc top đầu của lớp.
Năm 1945, sau khi đỗ bằng Tiểu học yếu lược và bước vào hệ Cao đẳng tiểu học ở trường Gia Long, việc học của ông bị dang dở vì biến động xã hội. Cuối năm đó, ông cùng gia đình tản cư về La Phù (Hà Tây). Tại nơi tản cư, ông quen một người anh dược sĩ, được anh tặng ba cuốn sách toán, lý, hóa bằng tiếng Pháp. Nhờ nền tảng tiếng Pháp từ nhỏ, ông đọc thông thạo cuốn sách này. Đây cũng chính là hành trình tự học mà ông theo đuổi suốt đời.
Những năm 1948–1950, dù phải phụ giúp mẹ buôn bán ở Hà Đông rồi trở lại Hà Nội, ông vẫn tranh thủ tự học toán, lý, hóa, tiếng Pháp và đi tàu điện vào thành phố học thêm văn ở trường tư. Nhờ nỗ lực bền bỉ, dù từng trượt bằng Cao đẳng Tiểu học vì ngoại ngữ, một năm sau ông đỗ Tú tài phần một (1951) và luôn đứng đầu lớp khi học tại Chu Văn An. Năm 1952, ông đỗ Tú tài phần hai.
Chọn nghề sư phạm vì có học bổng và được đi dạy sớm, ông thi đỗ Trường Cao đẳng Sư phạm, đồng thời theo học toán tại khoa Đại cương, Đại học Khoa học của Pháp ở Hà Nội. Nhờ nền tự học vững vàng, dù không dự đủ giờ lý thuyết, ông vẫn nắm chắc kiến thức và đạt kết quả cao trong các kỳ thi.
Năm 1953, để tránh nghĩa vụ quân sự, ông trốn ra vùng tự do Thanh Hóa rồi trở lại Hà Nội sau Giải phóng Thủ đô (1954). Ông tiếp tục học ba năm tại Đại học Sư phạm Khoa học dưới sự dẫn dắt của giáo sư Lê Văn Thiêm. Học bổng hằng tháng giúp ông trang trải và mua thêm sách toán – lý – hóa tiếng Pháp, thói quen theo ông nhiều năm.
Năm 1956, trước nhu cầu giảng viên cho các trường đại học mới, ông được cho ra trường sớm một năm và về giảng dạy tại khoa Toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội, bắt đầu sự nghiệp gắn bó suốt đời với giảng đường.
Ngoài giảng dạy cho sinh viên Khoa Toán - Cơ - Tin học, ông còn là một người thầy tâm huyết của học sinh Khối THPT chuyên Toán - Tin (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội).
Không chỉ cống hiến trong nước, trong thời gian công tác tại trường ĐHTH HN từ năm 1956 đến năm 2000, ông đã đi thực tập sinh ở Liên Xô 2 năm (1964 – 1966), làm chuyên gia giáo dục ở Madagasca (1980-1981), và làm chuyên gia giáo dục ở Algérie (1987-1990).
Sau khi nghỉ hưu, GS Hợp vẫn tích cực tham gia một số công việc chuyên môn như giảng dạy, biên soạn giáo trình và dìu dắt thế hệ trẻ.
Nhìn lại chặng đường đã đi, GS Hợp chia sẻ, hành trang giúp ông bước qua những năm tháng biến động của lịch sử, những khó khăn, thử thách để trở thành một nhà giáo, nhà khoa học, chính là tinh thần tự học, sức mạnh nội lực.
“Có thể nói, con đường học tập của tôi, một học sinh ở trong thành những năm 40, 50 của thế kỷ trước không hề dễ dàng. Để đi đến đích, trở thành người thầy thì tinh thần tự học vẫn là điều tiên quyết. Tinh thần ấy trở thành vốn và là hành trang vững chắc để tôi bước tiếp chặng đường học tập sau này”, GS.TSKH Nguyễn Thừa Hợp trải lòng trong một dịp trò chuyện.
Trong những chia sẻ xúc động về người cha - người thầy của mình, anh Nguyễn Tất Hiếu, con trai GS Nguyễn Thừa Hợp cũng đã nhắc tới triết lý sống, bí quyết thành công của GS Hợp, chính là nỗ lực bản thân.
“Con nhớ thời bao cấp đầu những năm 80, những bữa trưa hai bố con mình chia nhau một quả trứng vịt tráng mỏng. Chỉ thế thôi mà cũng đủ để bố đứng lớp buổi chiều. Có lẽ chính những bữa trưa đạm bạc ấy là khoảng thời gian hai bố con nói chuyện với nhau nhiều nhất. Bố kể cho con nghe về cuộc đời bố, về những triết lý sống mà bố đúc kết. Bố dạy con rằng dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến đâu, sự nỗ lực nội tại của bản thân mới là nhân tố quyết định thành công. Và cuộc đời của bố chính là minh chứng rõ nhất cho điều đó”, anh Hiếu chia sẻ.
Với những công lao đóng góp to lớn trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, GS Nguyễn Thừa Hợp đã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Hai, Huân chương Lao động hạng Ba (1998) và nhiều huy chương cũng như danh hiệu cao quý khác. Ông được Nhà nước trao tặng danh hiệu NGUT năm 1992, danh hiệu NGND năm 2008.
Trước sự ra đi của người thầy tận tâm, tận hiến, nhiều đồng nghiệp, học trò đã chia sẻ, bày tỏ niềm tiếc thương, đau buồn: “Vô cùng thương tiếc Thầy! Tôi, sinh viên Vật lý, ra trường gần 20 năm nhưng một trong những giáo trình nhớ nhất là Giải tích I, II, III của Thầy, dù chưa một lần được gặp Thầy. Xin cảm ơn Thầy về những cuốn sách quý! Xin chia buồn cùng gia đình và mong Thầy an nghỉ!”, “Một người thầy đáng kính, chúng em vẫn mãi luôn nhớ đến Thầy. Mong Thầy yên nghỉ!”, “Vô cùng thương tiếc người thầy tận tụy. Vinh hạnh đã được Thầy dạy trong những năm đại học. Xin được chia buồn cùng gia đình Thầy!”… Những lời tri ân này cho thấy phần nào đóng góp, tầm ảnh hưởng và di sản để lại của ông, một người thầy, nhà khoa học mẫu mực.