Sáng 11/12, Quốc hội chính thức thông qua Luật Phục hồi, phá sản với đại đa số đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua.
Trước khi Quốc hội thông qua dự án Luật, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính đã trình bày báo cáo tóm tắt tiếp thu, chỉnh lý và giải trình Luật này.
Theo đó, Luật phá sản được chỉnh lý với tên gọi Luật Phục hồi, phá sản theo đa số ý kiến của ĐBQH.
Về trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm chi phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản (Điều 20) UBTVQH cho rằng, thực tiễn giải quyết vụ việc phá sản tại các Tòa án nhân dân cho thấy chi phí phá sản trong trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm là không lớn. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 đã có quy định theo hướng không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn) đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 chưa quy định nguồn kinh phí để bảo đảm tạm ứng chỉ phí phá sản trong trường hợp miễn này dẫn đến điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản là không có kinh phí để chi trả chi phí phá sản.
Do đó, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi xác định nguồn chi trả chi phí phá sản trong các trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn), tại khoản 3 Điều 20 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ do ngân sách nhà nước bảo đảm đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn, cơ quan quản lý thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản (hoặc còn tài sản nhưng không thanh lý, thu hồi được hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tạm ứng chi phí phá sản, thanh toán chi phí phá sản). Tiền tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp này sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Về thẩm quyền, trách nhiệm của Cơ quan quản lý thuế, Cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản (Điều 38), Luật đã chỉnh lý như sau: "Cơ quan quản lý thuế phải nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đổi với doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật Quản lý thuế. Chính phủ quy định điều kiện nóp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản”.
Về thẩm quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội, trên cơ sở ý kiến của Chính phủ, dự thảo Luật đã được tiếp thu theo hướng cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi đã thông báo đôn đốc đối với khoản chậm, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế nhưng không có phản hồi trong 03 năm liên tiếp gần nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
Về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản (Điều 16, Điều 41, Điều 60 và Điều 67) UBTVQH đề nghị giữ nguyên quyền kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát như quy định tại các Điều 16, 41, 60 và 67 của dự thảo Luật đã trình Quốc hội vì quy định như tại dự thảo Luật vẫn bảo đảm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát, bảo đảm tính đúng đắn của việc giải quyết vụ việc của Tòa án bằng cơ chế giải quyết kiển nghị; đồng thời, vừa bảo đảm giải quyết vụ việc phá sản nhanh gọn, tiết kiệm chi phí phá sản, nhân lực tham gia theo yêu cầu của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Về giao dịch có thỏa thuận thanh toán ròng, trên cơ sở ý kiến của Chính phủ, UBTVQH xin tiếp thu theo hướng giao cho Bộ trưởng Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam và thủ trưởng các cơ quan có liên quan quy định trong trường hợp pháp luật có quy định khác.
Do đó, đề nghị Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao để ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn nội dung này để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các giao dịch có thỏa thuận thanh toán ròng.