Lý doThi Nại Am đặt tên 'Thuỷ Hử' về 108 vị anh hùng Lương Sơn

Thủy Hử là tác phẩm truyền hình kinh điển của Trung Quốc được chuyển thể từ danh tác cùng tên. Và cái tên “Thủy Hử” dù khó hiểu nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc...

Xem đi xem lại Thủy Hử, mấy ai biết được ý nghĩa thực sự của tên truyện

Bên cạnh Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa hay Hồng Lâu Mộng thì Thủy Hử là bộ phim truyền hình Trung Quốc được nhiều thế hệ khán giả yêu thích. Bộ phim dù được tái hiện nhiều lần trên màn ảnh nhỏ nhưng cho đến nay vẫn chưa giảm đi sức hút của mình.

Trong số Tứ Đại Danh Tác Trung Hoa, nếu như Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa và Hồng Lâu Mộng đều là những cái tên khá dễ hiểu thì Thủy Hử Truyện lại là cái tên gây bối rối cho cả độc giả đọc nguyên tác lẫn khán giả xem bản truyền hình chuyển thể.

Ly doThi Nai Am dat ten 'Thuy Hu' ve 108 vi anh hung Luong Son

Tên tiếng Anh của "Thủy Hử" hoàn toàn không toát lên được ý nghĩa sâu xa của tên tác phẩm.

Bởi lẽ, xuyên suốt tác phẩm kể về câu chuyện của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc này, hai chữ "Thủy Hử" thậm chí không xuất hiện lấy một lần. Trong những bộ phim truyền hình chuyển thể, tình trạng tương tự cũng diễn ra.

Thậm chí, những nhà biên dịch cuốn sách lưu danh kim cổ này sang tiếng nước ngoài cũng gặp không ít khó khăn trong việc dịch tiêu đề "Thủy Hử".

Vậy tại sao, Thi Nại Am không đặt tên tác phẩm của mình là "Thủy Bạc Lương Sơn" hay "Lương Sơn Truyện" cho dễ hiểu? Ý nghĩa phía sau cái tên "Thủy Hử" thực chất là gì?

Cho đến nay, hậu thế vẫn truyền tai nhau một giai thoại rằng: chính La Quán Trung – "cha đẻ" cuốn danh tác Tam Quốc Diễn Nghĩa chính là người nghĩ ra cái tên Thủy Hử.

Ly doThi Nai Am dat ten 'Thuy Hu' ve 108 vi anh hung Luong Son-Hinh-2

Phía sau cái tên "Thủy Hử" là câu chuyện hết sức thú vị và ý nghĩa.

Theo đó, La Quán Trung được cho là học trò của Thi Nại Am. Năm xưa, Thi Nại Am vốn định đặt tên cho tác phẩm của mình là Khách Truyện Giang Hồ. Tuy nhiên, chính bản thân ông cũng cảm thấy cái tên này không đủ sức diễn tả hàm ý sâu xa mà ông muốn truyền tải qua tác phẩm.

Ngay sau khi được La Quán Trung gợi ý tên gọi Thủy Hử, Thi Nại Am đã cảm thấy rất tâm đắc và lập tức dùng cái tên súc tích này đặt cho tác phẩm của mình.

Vậy sự súc tích của cái tên Thủy Hử nằm ở đâu? Có hai tầng ý nghĩa ẩn sau tên gọi này.

Thứ nhất, Thủy Hử có nghĩa đen là "bến nước" – nơi các anh hùng có dịp tương ngộ với nhau trước khi cùng nhau lên Lương Sơn tụ nghĩa.

Thứ hai, Thủy Hử được bắt nguồn từ hai câu thuộc bài Miên trong Kinh Thi, gắn liền với điển tích về cuộc di cư đi tìm vùng đất mới để an cư lạc nghiệp của tộc Chu:

Cổ Công Đản Phụ, Lai Hướng Tẩu Mã

Suất Tây Thủy Hử, Chí Vy Kỳ Hạ

Theo đó, tương truyền rằng, thời bấy giờ, bộ tộc Chu đang sống tại đất Mân – mảnh đất nơi biên thùy cằn cỗi, thường xuyên phải hứng chịu sự quấy phá của các thế lực dũng mãnh bên ngoài. Suốt nhiều năm trời, họ phải sống cảnh nghèo khổ, thiếu cơm ăn áo mặc và nguy hiểm rình rập.

Cho đến khi Chu Thái Vương – tức Cổ Công Đản Phụ xuất hiện, bộ tộc ấy mới thay đổi được số mệnh của mình. Dưới sự dẫn dắt và lãnh đạo của Chu Thái Vương, bộ tộc Chu rời khỏi đất Mân, vượt qua bao gian nan, vất vả, vượt sông Tất, sông Thư, núi Lương để đến định cư tại Kỳ Sơn (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) – một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ và hoàn toàn không chịu sự quấy phá của bất cứ thế lực nào.

Tại đây, bộ tộc Chu bắt đầu phát triển lớn mạnh, hưng thịnh và cuối cùng thay thế nhà Thương để lập nên nhà Chu, có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử của đất nước Trung Hoa.

Chính vì thế, chữ Thủy Hử trong hai câu thơ trên chính là để chỉ vùng đất mà Chu Thái Vương đã dẫn bộ tộc mình đến an cư, cũng chính là vùng đất mà họ Chu trở lên hưng thịnh sau này.

Ly doThi Nai Am dat ten 'Thuy Hu' ve 108 vi anh hung Luong Son-Hinh-3

108 vị anh hùng Lương Sơn cuối cùng vẫn không thể tìm được "lối ra" cho mình.

Hiểu rộng ra, Thủy Hử còn có nghĩa là "lối ra", là "đường sống", là "nơi an cư lạc nghiệp" của những con người từng trải qua cuộc sống túng quẫn, bế tắc. Hiểu theo nghĩa này, cái tên Thủy Hử dùng để đặt cho câu chuyện về 108 vị anh hùng Lương Sơn trở nên hoàn toàn dễ hiểu.

Chỉ có điều đáng tiếc là, cuối cùng, những anh hùng núi Lương Sơn đã không thể tìm ra "lối thoát", không thể tìm ra con đường đi đến nơi có thể an cư lạc nghiệp giống như bộ tộc họ Chu đã từng làm được.

3 nữ tướng xinh đẹp khiến dâm phụ Phan Kim Liên phải hổ thẹn

Ngoài các anh hùng hảo hán, Thủy hử còn miêu tả khá nhiều về những nữ tướng khiến "đệ nhất dâm phụ” Phan Kim Liên phải tự xấu hổ.

Hỗ Tam Nương (Hổ Tam Nương)

Nữ tướng Hỗ Tam Nương biệt hiệu là Nhất Trượng Thanh, tức "cao một trượng", cho thấy ngoại hình sắc vóc cũng như cá tính hơn người. Kiệt nữ này "ra mắt" ở hồi 46 Thủy Hử nhân chuyện Lương Sơn khởi binh đánh Chúc Gia Trang.

Chiến tướng văn võ song toàn Lương Sơn Bạc là ai?

Những trận đánh lớn với quân Phương Lạp và nhà Liêu đã minh chứng cho tài binh pháp đỉnh cao của người này.

Để xây dựng các nhân vật anh hùng xuất chúng tụ nghĩa trên Lương Sơn Bạc thế thiên hành đạo, nhà văn Thi Nại Am đã lấy cảm hứng từ các nhân vật có thật trong lịch sử Trung Quốc. Một trong số đó là 'Đại đao' Quan Thắng - Thủ lĩnh 'Ngũ hổ tướng' Lương Sơn Bạc.

Anh hùng giàu nhất Thủy Hử sở hữu 'kim bài miễn tử' là ai?

Vừa giàu có lại vừa hào phóng, vị anh hùng danh tiếng lừng lẫy trong Thủy Hử nhiều lần ra tay giúp đỡ Lâm Xung, Võ Tòng, Tống Giang khi gặp nạn.

Thủy Hử của tác giả Thi Nại Am là tác phẩm kinh điển của Trung Quốc khi xây dựng thành công hình tượng 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Họ là những hảo hán trong thiên hạ, mỗi người mang trong mình một câu chuyện, một hoàn cảnh khác nhau. Trong đó, người được xem là giàu có và có xuất thân cao quý nhất chính là "Tiểu Toàn Phong" Sài Tiến - vị anh hùng xếp ở vị trí 10/108 anh hùng Lương Sơn Bạc.

Anh hung giau nhat Thuy Hu so huu 'kim bai mien tu' la ai?

Tranh vẽ Sài Tiến

Được biết, Sài Tiến vốn là hậu duệ của Hoàng đế thứ hai nhà Hậu Chu – Chu Thế Tông Sài Vinh 921 – 959), vị hoàng đế được lịch sử ngợi ca là đệ nhất minh quân thời Ngũ Đại Thập Quốc. Gia đình Sài Tiến khi đó chính là đệ nhất phú gia ở Thương Châu (Thiểm Tây, Trung Quốc ngày nay). Ông được miêu tả là có gương mặt vuông vức, mắt sáng như mắt Phượng, chân mày cong như chân mày Rồng. Đặc biệt, ở Sài Tiến toát lên cốt cách quyền quý, đúng chuẩn con nhà hoàng tộc.

Anh hung giau nhat Thuy Hu so huu 'kim bai mien tu' la ai?-Hinh-2

Hình tượng Sài Tiến trên phim truyền hình

Chính nhờ xuất thân cao quý nên Sài Tiến cũng có được nhiều đặc quyền, trong đó phải kể đến "bảo bối" Đan Thư Thiết Khoán - tờ giấy viền lụa nhuộm màu vàng óng, đường vân rồng thêu chìm tỉ mỉ, bên trong có dấu ấn đỏ được đóng từ ngọc tỷ của Hoàng đế. Đây được xem như "kim bài miễn tử" của gia tộc họ Sài, dù phạm tội nặng đến đâu cũng không bị xử tử. Nhay cả các đời hoàng đế về sau cũng không thể đụng đến người trong Sài gia.

Giàu có, cao quý nhưng điểm quý nhất ở Sài Tiến chính là sự hào phóng và trượng nghĩa. Nhiều lần Lâm Xung, Võ Tòng, Tống Giang gặp nạn đều được Sài Tiến ra tay giúp đỡ. Ngay cả Đan Thư Khiết Đan, Sài Tiến cũng không ngần ngại mang ra để cứu các anh hùng Lương Sơn khỏi sự truy sát của quan binh.

Sau khi bị Ân Thiên Tích (họ hàng với Cao Cầu) gây rối và được các anh hùng Lương Sơn Bạc giải cứu thì Sài Tiến đã quyết định gia nhập nghĩa quân với vị trí Đầu lĩnh, tổng quản kho lương, tiền bạc cho nghĩa quân. Dù giỏi dùng thương nhưng biệt tài đặc sắc nhất của ông chính là nội ứng. Sài Tiến từng trà trộn vào quân của Phương Lạp, khiến tướng địch coi trọng, phong làm lãnh chúa và gả cả con gái cho.

Nhờ có Sài Tiến nên nghĩa quân của Tống Giang mới công phá thành công cứ điểm của Phương Lạp. Tuy nhiên sau này, Sài Tiến quyết định rời nghĩa quân, vờ cáo bệnh xin về quê ở Thương Châu, sống nhàn nhã, ẩn dật cho đến khi qua đời.

Đọc nhiều nhất

Tin mới