Chùa Pháp Môn và xá lợi ngón tay Phật

Chùa Pháp Môn (法门寺) tọa lạc tại thị trấn Pháp Môn, huyện Phú Phong, tỉnh Thiểm Tây, cách thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây khoảng 120km về phía Tây.

Chùa được coi là "Tổ tiên của các ngôi chùa trong khu vực Quán Trung".
Chùa Pháp Môn được xây dựng dưới thời Đông Hán (từ năm 25 - 220) để tôn trí xá lợi của Đức Phật Thích Ca. Lúc ban sơ, chùa được gọi tên là A Dục. Theo truyện tích A Dục Vương, vua A Dục từng đem xá lợi Phật Thích Ca chia làm tám vạn bốn ngàn phần rồi đem cúng dường đến tám vạn bốn ngàn tháp trên khắp thế giới, hộp xá lợi ngón tay Phật tại chùa Pháp Môn bây giờ là một trong số đó.
Toàn cảnh chùa Pháp Môn.
 Toàn cảnh chùa Pháp Môn.
Đến triều nhà Đường, chùa A Dục được đổi thành chùa Pháp Môn và trở thành ngôi chùa hoàng gia. Trong khuôn viên chùa có xây dựng một ngôi tháp lớn cao 13 tầng để tôn thờ xá lợi Phật.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, ngôi bảo tháp chùa Pháp Môn không được sửa chữa, nên vào năm 1981, bên mặt Tây ngôi tháp bị vỡ ra. Năm 1986, một nửa tháp bên Đông cũng bị sụp. Năm 1987, để trùng tu bảo tháp, chính quyền tỉnh Thiểm Tây quyết định tiến hành khai quật, khảo cổ phần nền tháp và các di tích xung quanh.
Trong lúc khai quật, một nhân công tình cờ phát hiện cửa vào một cung điện dưới lòng đất (địa cung). Cánh cửa dẫn vào địa cung là một lối đi nhiều tầng cấp bằng gạch. Trên các thang cấp được rải đầy các loại tiền đồng lớn nhỏ. Cuối đường hầm là cửa đá thứ hai, nơi cất giấu các văn bia.
Trên bia ghi lại, Trung Quốc trong thời gian từ Nguyên Ngụy cho đến đời Đường, các đế vương đều theo lệ nhiều lần đến chùa Pháp Môn lễ bái xá lợi Phật. Sau cửa đá thứ hai là Tiền thất, trung tâm địa cung, là phù điêu bằng bạch ngọc đời Hán khắc thành tháp A Dục vương.
Phần cuối cùng của Tiền thất xuất hiện cửa đá thứ ba, bên trong lại thêm một thế giới trân bảo, được gọi là Trung thất. Sau bức tường Trung thất phát hiện thêm cánh cửa đá thứ tư. Vào bên trong là Hậu thất. Bên dưới phía cuối Hậu thất là một mật khám. Và người ta đã phát hiện ra bốn viên xá lợi xương ngón tay Phật được lưu giữ dưới địa cung này.
Tháp A Dục Vương được tìm thấy dưới địa cung.
 Tháp A Dục Vương được tìm thấy dưới địa cung.
Bốn viên xá lợi được lần lượt phát hiện như sau: Viên thứ nhất, xá lợi chất ngọc được thờ trong tám lớp hòm quý. Viên thứ hai, xá lợi chất ngọc phát hiện tại Trung thất. Viên thứ ba, xá lợi chất xương phát hiện tại mật khám của Hậu thất. Và viên thứ tư, xá lợi chất ngọc được phát hiện tại Tiền thất, được an trí trong hòm bạc mạ vàng thờ trong tháp A Dục Vương bằng đồng đời Hán.
Trong bốn viên xá lợi, viên thứ ba (chất xương) là linh cốt xá lợi, còn lại ba viên kia là ảnh cốt (ảnh cốt tức là hình ảnh mô phỏng xá lợi Phật được tạo ra để thờ tượng trưng thay cho linh cốt xá lợi - xá lợi thật, nhằm tránh bị thủ tiêu hoặc đánh cắp trong các thời Phật giáo bị hủy diệt).
Kiểu dạng địa cung được chiếu theo hình thức lăng mộ của đế vương để kiến tạo. Việc phát hiện ra địa cung và xá lợi Phật dưới ngôi tháp chùa Pháp Môn làm cả thế giới kinh ngạc. Trước mắt, có thể nói đây là địa tháp Phật đẳng cấp cao nhất được phát hiện trên thế giới. Cùng với những viên xá lợi vô giá được phát hiện dưới địa cung, nhiều di vật cổ quý giá, nhiều văn vật trân quý khác và đồ trang sức của hoàng gia cũng được tìm thấy trong địa cung này. Theo đánh giá của các nhà kiến trúc, khảo cổ thì địa cung được xây dựng dưới triều đại nhà Đường (618-907).
Chùa Pháp Môn là ngôi chùa của hoàng gia trong thời nhà Tùy (581-618) và nhà Đường. Các vị hoàng đế nhà Tùy và nhà Đường cho rằng, gìn giữ và tôn thờ xá lợi Phật sẽ mang lại sự giàu có và hòa bình cho đất nước và nhân dân. Vì vậy, họ đã cúng dường nhiều báu vật và bảo tồn xá lợi Phật rất cẩn mật.
Theo sử ký, vào triều nhà Đường, xá lợi ngón tay Phật từng được 7 lần cung nghinh vào cung để cúng dường. Nghi thức cung nghinh rất long trọng, ít thấy trong đời, hoàng đế thân hành nghinh đón, hương hoa rải khắp đường đi, vạn dân cùng triều bái, viết nên một trang sử hết sức trang trọng cho triều đại nhà Đường. Cung nghinh xá lợi ngón tay Phật lần thứ nhất dưới triều nhà Đường là vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Quán.
Lúc vua Đường Võ Tông quyết định hủy diệt Phật giáo, chùa Pháp Môn cũng khó thoát được kiếp nạn đó, địa cung bị phá hủy, may thay xá lợi lại không hề hấn gì. Địa cung chùa Pháp Môn đã bị đóng cửa vào khoảng thời gian năm thứ 15 niên hiệu Hàm Thông Đường Nghệ Tông. Sau hơn 1.100 năm bị quên lãng, xá lợi ngón tay Phật cuối cùng cũng đã xuất hiện lại trong nhân gian.
Kể từ lúc mới được thành lập cho đến nay, chùa Pháp Môn đã trải qua nhiều cuộc thịnh suy, đã bị hư hại rồi lại được trùng tu rất nhiều lần.
Theo những cứ liệu lịch sử, dưới triều Bắc Ngụy, chùa Pháp Môn đã tồn tại với quy mô khá lớn. Tuy nhiên, Phật giáo đã bị đàn áp và tàn diệt trong thời Vũ Đế dưới triều đại nhà Bắc Chu và chùa Pháp Môn đã bị phá hủy gần như hoàn toàn. Sau khi triều đại nhà Tùy được thành lập, Phật giáo lại được tôn kính và chùa Pháp Môn được xây dựng lại, nhưng không còn bề thế như dưới triều Bắc Ngụy.
Sau khi triều đại nhà Đường được thành lập, chùa Pháp Môn bước vào những chuỗi ngày bình yên. Dưới triều đại nhà Đường, chùa trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo và mở rộng.
Một công trình kiến trúc trong quần thể chùa Pháp Môn.
 Một công trình kiến trúc trong quần thể chùa Pháp Môn.
Trong thời đại Ngũ đế, vua Tần là Lý Mậu Trinh đã bỏ ra hơn 30 năm để cải tạo chùa. Sau khi triều Bắc Tống được thành lập, chùa Pháp Môn đã được hồi sinh một lần nữa. Dưới triều đại nhà Minh, chùa Pháp Môn đã bị hư hại nặng trong trận động đất Quán Trung, ngôi chùa gỗ được xây dựng dưới triều đại nhà Đường cũng bị sụp đổ.
Qua triều đại nhà Thanh, chùa Pháp Môn đã được trùng tu nhiều lần. Sau khi nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, các công trình của chùa phần lớn bị hủy hoại bởi con người và thiên tai. Vào năm 1938, Hiệp hội Từ thiện Bắc Trung Quốc đã quyết định xây dựng lại chùa, hoàn thành vào tháng 7/1940.
Sau khi đổi tên nước thành Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, chùa Pháp Môn được xếp vào một trong những di tích lịch sử quan trọng đầu tiên cần được bảo vệ của tỉnh.
Sau năm 1979, chính quyền tỉnh Thiểm Tây đã tài trợ kinh phí trùng tu một số công trình kiến trúc chính của chùa. Vào ngày 3/4/1987, cung điện dưới lòng đất chùa Pháp Môn được phát hiện đã gây sự chú ý trên toàn lãnh thổ Trung Hoa và cộng đồng thế giới, vị thế của ngôi chùa được nâng lên rất nhiều. Ngay sau đó, việc trùng tu, kiến tạo đã được tiến hành và hoàn thành trong năm 1988. Vào ngày 9/11/1988, Viện bảo tàng chùa Pháp Môn cũng được mở cửa. Đây là nơi trưng bày những bảo vật, di vật được tìm thấy trong địa cung của chùa cùng những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật Phật giáo qua các triều đại lịch sử.
Vào tháng 5/2009, chính quyền Thiểm Tây đã xây dựng hoàn thành giai đoạn đầu của khu phức hợp trong quần thể chùa Pháp Môn. Nhờ đó mà diện tích khuôn viên chùa Pháp Môn đã được mở rộng hơn nhiều. Khu thắng cảnh văn hóa với diện tích 0,61km2 đã được thêm vào quần thể của ngôi chùa.
Hiện tại, quần thể chùa Pháp Môn, bên cạnh ngôi chánh điện nguy nga, ngôi tháp 13 tầng cao 148m, còn có nhiều công trình kiến trúc độc đáo khác.
Ngày nay, chùa Pháp Môn là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Trung Hoa. Bước vào khuôn viên chùa như lạc vào cảnh giới của chư Phật. Hàng năm, chùa Pháp Môn thu hút rất đông khách hành hương trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái và đảnh lễ xá lợi Phật.

Độc giả nghe pháp âm, xem pháp thoại ở đâu?

Nhiều độc giả muốn nghe pháp âm, xem pháp thoại của chư Tôn đức giảng sư, các Thiền sư nổi tiếng nhưng không biết vào trang nào để xem cho phù hợp.

Đây là một số trang tin chuyên nội dung pháp âm, pháp thoại để cho độc giả tham khảo: 1. Pháp âm thường chuyển: Đây là chuyên trang Media pháp âm Phật giáo, bao gồm các bài giảng của chư Tôn đức, ca nhạc Phật giáo, kinh tụng,...Chịu trách nhiệm nội dung: Đại đức Thích Chí Giác Thông. Ban biên tập: Vương Chân - Phương Mai. Webisite: http://www.phapamthuongchuyen.com/

Đây là một số trang tin chuyên nội dung pháp âm, pháp thoại để cho độc giả tham khảo: 1. Pháp âm thường chuyển: Đây là chuyên trang Media pháp âm Phật giáo, bao gồm các bài giảng của chư Tôn đức, ca nhạc Phật giáo, kinh tụng,...Chịu trách nhiệm nội dung: Đại đức Thích Chí Giác Thông. Ban biên tập: Vương Chân - Phương Mai. Webisite: http://www.phapamthuongchuyen.com/

Lựa chọn bình yên…

Tôi nhớ lời Phật dạy, “tướng từ tâm sinh”, nên nét từ bi, nhân ái sẽ thấm nhuần qua ánh mắt, nụ cười.

Tối qua, P. nhắn tin cho tôi thật khuya, chia sẻ rằng đã chính thức nộp đơn nghỉ việc và hôm nay sẽ nghỉ việc chính thức! Đó là một quyết định khó khăn, xét trong thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay. Thế nhưng, tôi hiểu và nghĩ nó là quyết định tất yếu, vì ở đó em gặp phải sự đối xử phân biệt người miền này, tỉnh khác, sự châm chọc về Đấng Thiêng liêng mà em đã quy y - quay về nương tựa.
Có đôi khi, cái đẹp nơi một con người trong mắt một ai đó không phải đến từ cái mặt sáng ngời. Ảnh minh họa.
Có đôi khi, cái đẹp nơi một con người trong mắt
một ai đó không phải đến từ cái mặt sáng ngời. Ảnh minh họa.

Tôi trả lời với P., rằng tôi ủng hộ em, không phải vì em bỏ việc mà vì quyết định ấy là quyết định mang tên khí tiết, em phải gìn giữ lòng tôn quý và ngưỡng vọng đến cùng bậc Thầy của mình, em thà mất việc chứ không thể chịu nghe người ta phỉ báng Thầy mình dẫu em cũng hiểu, rất hiểu về nhân-quả, ai ăn nấy no, gieo chi thì gặt nấy. Người ta phỉ báng một bậc Thánh, bậc Thầy đáng kính thì họ tổn hại phước đức, không ảnh hưởng tới em. Nhưng, làm sao em có thể cộng sự với một người mà ở nơi họ không hề có niềm tôn kính bậc Thầy của mình, lại còn không tôn trọng niềm kính ngưỡng riêng tư của em?

Tôi hiểu cảm giác đó, hiểu đến cùng cái khó khăn của một quyết định mà em đã phải đắn đo không phải ngày một ngày hai, mà là cả một quá trình nhẫn nhịn, vượt qua. Nhưng, sức người vốn có hạn, sự tu cũng là một quá trình tập tành, biết là bậc Thầy khả kính đó sẽ không chấp trách những lời nặng nhẹ, phỉ báng của chúng sinh nhưng trong vai học trò thì em sẽ không thể thỏa hiệp, làm cộng sự cho họ, dẫu ở đó em sẽ có một chỗ làm, nơi em rèn nghề và mưu sinh.

Ai sinh ra là người thì đều phải lao động, kiếm sống như một bản năng sinh tồn và phát triển, nhưng, không phải ta sẽ cam chịu để thỏa hiệp với cái xấu, cái ác để được sống, vì ngoài cái sống của thể xác, tâm hồn ta cũng cần phải ăn.

Người ta nói, “đói cho sạch” chính là ở ý nghĩa này nữa, ta thà chịu đói, thậm chí thân hoại mạng vong chứ mình không thể sống trên sự thiếu từ bi, dựa vào những kẻ xấu ác, hợp tác với những điều vô luân, bất nhân, bất nghĩa để sống. Bởi sự sống ấy nếu có thì chỉ là cái sống giản đơn của một sinh thể, còn sự tồn tại theo nghĩa tinh thần, phẩm chất cao thượng thì không có mặt ở đây.

Cũng là về P., tôi nhớ có lần em chia sẻ, rằng, “em thấy cô bạn xinh xinh, muốn tìm hiểu, nhưng một lần nghe người đó khen ăn thịt chó, giò hầm, heo quay, gà rô-ti ngon, thèm ăn những món được vay mượn từ xương thịt chúng sinh khác... tự nhiên em mất thiện cảm, không thể quen được, dẫu họ cũng thích mình”.

Có đôi khi, cái đẹp nơi một con người trong mắt một ai đó không phải đến từ cái mặt sáng ngời, mái tóc đen mượt, làn da tươi mát, mà nó đến từ lòng từ bi, sự thương quý con người và muôn loại nơi người kia.

Không ai phủ nhận những cái đẹp bên ngoài là dễ hút người ta về mặt ánh nhìn, xúc chạm bằng các giác quan. Nhưng, đằng sau những cái đẹp hình thể, thuộc về mắt thấy, tai nghe, tay chạm... thì tâm hồn trong sáng, tinh anh, sạch sẽ từ ý-khẩu-thân nhiều khi mới là điều thuyết phục người khác tin tưởng, yêu thương, trao gửi cảm xúc, tình thâm. Có lẽ vì thế mà có những người đẹp chỉ để nhìn rồi thôi, thậm chí nếu họ biết đằng sau vẻ ngoài đẹp đẽ ấy là dao găm, là thuốc độc, là thiếu chất người tối thiểu... thì người ta cũng chẳng nhìn, còn tìm cách hủy hoại.

Tôi nhớ lời Phật dạy, “tướng từ tâm sinh”, nên nét từ bi, nhân ái sẽ thấm nhuần qua ánh mắt, nụ cười, và, người ta sẽ cảm được và mình sẽ trở nên gần gụi, ưa nhìn đối với số đông dẫu mình chưa phải là người hoàn hảo.

Mong là em sẽ vững chãi, và tin là nơi em luôn gìn giữ được thiên lương trong sáng từ việc biết khước từ những cơ hội làm việc, những cái đẹp bên ngoài vì ở bên trong nó ngầm chứa những điều không đẹp, không dựa trên nền tảng bi-trí của Phật dạy!

Kỳ 2: Am Ngọa Vân

Tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông là: hãy vui đạo giữa đời (cư trần lạc đạo), tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Không chỉ là một vị tướng tài mà Trần Nhân Tông còn là một nhà tư tưởng, một nhà thơ và đặc biệt ông chính là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một tông phái Phật giáo đậm chất văn hóa Đại Việt.
Chương II
TRẦN NHÂN TÔNG, ANH HÙNG DÂN TỘC, DANH NHÂN VĂN HÓA
Trần Nhân Tông là vị vua thứ 3 của nhà Trần, tên húy là Khâm, ông sinh ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258). Năm mười sáu tuổi (1274) được sắc phong làm Hoàng thái tử, kết hôn cùng con gái trưởng của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ngày 22 tháng 10 năm 1278 được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi khi mới 21 tuổi, ông làm vua 14 năm (1278-1293).
Năm 1293, ở tuổi 35, ông nhường ngôi cho con, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng 1, xuất gia tu tập tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Năm 1299, khi vua Trần Anh Tông đã đủ trưởng thành, Thượng hoàng Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành khổ hạnh tại đỉnh Tử Tiêu núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và tự xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Trong lịch sử dân tộc, vua Trần Nhân Tông là một trong những anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu. Vốn là người thông minh trời phú cộng với tính ham học, lại thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi với tinh thần cởi mở; kết hợp kiến thức khoa học với văn chương; quân sự với âm nhạc vì thế, ngay từ khi còn trẻ ông đã học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm bắt một cách sâu sắc.
Nhờ có đủ tầm vóc về bản lĩnh và trí tuệ như vậy nên mặc dù vừa lên ngôi, vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua tình thế hết sức hiểm nghèo có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của quốc gia, dân tộc, đó là việc quân Nguyên Mông ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần thứ hai.
Bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, ông đã khéo léo thi hành các chính sách ngoại giao mềm dẻo nhằm tạo cơ hội cho quân dân Đại Việt có thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị khí giới đồng thời khẩn trương tiến hành một loạt biện pháp nhằm nâng cao tiềm lực chính trị, kinh tế, quân sự, vv… để chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược mà ông biết chắc chắn rằng nó sẽ diễn ra.
Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, trên dưới một lòng, anh em hòa thuận, ông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh bại hai cuộc tấn công xâm chiếm của Nguyên Mông, cuộc xâm lược lần thứ 2 (1285) và cuộc xâm lược lần thứ 3 (1288) kết thúc bằng chiến thắng trên sông Bạch Đằng, một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để cho “non sông ngàn thủơ vững âu vàng”2. Dấu ấn của chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3 trên sông Bạch Đằng hiện còn lại trên đất Yên Đức của quê hương Đông Triều và những bãi cọc tại Yên Hưng (Quảng Ninh).
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng (1288), tranh sơn dầu.
 Chiến thắng trên sông Bạch Đằng (1288), tranh sơn dầu.
Mặc dù quân dân Đại Việt đã giành thắng lợi vẻ vang, bảo vệ vững chắc độc lập của dân tộc song một thực tế rõ ràng là, sau chiến tranh không ít làng xóm, gia đình bị li tán, mùa màng bị tàn phá. Trước tình hình đó, chỉ mấy ngày sau chiến thắng, khi về Thăng Long vua Trần Nhân Tông đã ban chiếu, tuyên bố lệnh đại xá cho thiên hạ và tha tô thuế, tạp dịch cho những vùng đã trải qua chiến tranh, các vùng khác tùy vào mức độ bị tàn phá mà giảm.
Tiếp sau đó vua cho ban hành hàng loạt chính sách nhằm khoan thư sức dân, thúc đẩy sản xuất, tiến hành khen thưởng những người có công lao trong hai cuộc chiến, đồng thời tùy vào nặng nhẹ mà xử lý với những người mắc tội, để những người lầm lỡ hàng giặc khi giặc tới xâm lược được yên tâm sống, làm việc và có cơ hội chuộc lại lỗi lầm bằng việc lao động, sản xuất và cống hiến. Vua Trần Nhân Tông đã cho đốt toàn bộ giấy tờ, biểu, tấu mà họ đã gửi xin hàng giặc.
Song song với việc giải quyết chính sách hậu chiến, việc tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng phi quân sự bằng việc “chọn các quan văn chia đi cai trị các lộ” cũng được triển khai để thực hiện việc cai trị đất nước theo pháp luật. Từ đó tạo điều kiện cho người dân mở mang sản xuất, phát triển kinh tế. Với hàng loạt chính sách có tính sách lược và chiến lược được ban hành như vậy, Trần Nhân Tông đã đưa Đại Việt nhanh chóng “bước ra khỏi cuộc chiến”, các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, nhân dân được hưởng cuộc sống thái bình thịnh trị. Có được những kết quả đó là nhờ tài năng và công đức của vua Trần Nhân Tông.
Bên cạnh công cuộc tái thiết đời sống vật chất, tạo bộ mặt tươi đẹp cho đất nước và con người, thì việc xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh cho người dân cũng được vua Trần Nhân Tông quan tâm một cách sâu sắc. Ông tổ chức và gây dựng một quá khứ thần thánh cho dân tộc bằng việc phong thần cho những người có công với dân với nước như Phù Đổng Thiên Vương, Sĩ Nhiếp, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt v.v.. Trong hai đợt phong thưởng cho những người có chiến công trong các cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã không quên tỏ lòng biết ơn những vị anh hùng đã khuất bằng cách phong thưởng cho họ các danh hiệu cao quý 3.
Không chỉ là một vị tướng tài mà Trần Nhân Tông còn là một nhà tư tưởng, một nhà thơ và đặc biệt ông chính là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một tông phái Phật giáo đậm chất văn hóa Đại Việt. Tư tưởng Phật giáo của Ông là: hãy vui đạo giữa đời (cư trần lạc đạo), tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và nó được đánh giá là sự kết tinh những giá trị cao cả nhất của nhân loại: Trí tuệ, lòng nhân ái và sự hòa giải.
Am Ngọa Vân (ảnh Anh Minh).
  Am Ngọa Vân (ảnh Anh Minh).
Trên phương diện văn chương, Trần Nhân Tông sáng tác nhiều thể loại văn học khác nhau bao gồm: thơ, phú, ngữ lục, vv.. thơ văn của Trần Nhân Tông “là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do của một nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hòa hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác với sự từng trải lịch lãm”4 .
Với những đóng góp lớn lao trong việc lãnh đạo nhân dân Đại Việt trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, đưa đất nước phát triển về mọi mặt, làm phát triển hơn nữa những giá trị của nền văn minh Đại Việt, ông đi vào lịch sử dân tộc với vị trí một vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Còn nữa...
Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Văn Anh Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Trích trong cuốn Am Ngọa Vân, tác giả Nguyễn Văn Anh, NXB Văn hóa Thông tin năm 2013.

-------------------------------------------------------------------

1. Các vua nhà Trần làm vua một thời gian thì nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng hoàng. Lên làm Thái Thượng hoàng không phải là để nghỉ ngơi mà là để dìu dắt, giám sát và cùng tham gia điều hành đất nước với vua, giúp vua làm quen với việc quản lý, điều hành đất nước. Chế độ này tạo nên tính liên tục trong quản lý và điều hành đất nước của nhà Trần. Ban đầu Thượng hoàng ở Bắc cung tại Thăng Long, khi Thiên Trường được xây dựng thì Thượng hoàng về ở tại cung Trùng Hoa, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
2. Trích thơ Trần Nhân Tông
3. Lê Mạnh Thiết. Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb TPHCM
4. Thơ văn Lý - Trần, tập II. tr452

Đọc nhiều nhất

Tin mới