Chân dung tiến sĩ Việt trở thành “người hùng” chống lại nạn đói toàn cầu

Hoan Dinh - một tiến sĩ trẻ người Việt vừa được vinh danh nhờ công trình nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp góp phần giúp giải quyết nạn đói trên toàn cầu.

Tiến sĩ người Việt Hoan Dinh sinh ra tại miền quê Việt Nam, anh sang Úc theo học bổng bậc tiến sĩ do chính phủ Úc cấp.
Theo đó, Hoan Dinh đã có bước đột phá xuất sắc khi phân lập được trình tự gen giúp kháng bệnh gỉ sắt ở lúa mạch, vốn là loại bệnh làm giảm 10% sản lượng lương thực toàn cầu.
Chan dung tien si Viet tro thanh “nguoi hung” chong lai nan doi toan cau
Tiến sĩ người Việt Hoan Dinh tại Đại học Sydney (Ảnh: The Guardian)
Hoan Dinh chia sẻ rằng, sự khác biệt lớn nhất giữa nông nghiệp Úc và Việt Nam là ở đất nước anh sinh ra hầu hết công việc được thực hiện thủ công bằng tay, trong khi ở Úc, công việc được thực hiện bằng máy móc nhiều hơn.
Sinh ra trong gia đình nhà nông nên ngay từ khi còn nhỏ, tiến sĩ người Việt đã chứng kiến những khó khăn, vất vả mà người nông dân phải một nắng hai sương đổ mồ hôi trên đồng ruộng. Đây cũng là động lực thôi thúc anh quyết tâm học chuyên sâu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Giáo sư Robert Park, người hướng dẫn Hoan Dinh tại Đại học Sydney, cho biết sự chăm chỉ tìm tòi nơi sinh viên của ông cuối cùng cũng được đền đáp xứng đáng, anh đã xuất sắc phát hiện ra một loại gen kháng thuốc mới trong giới thực vật nói chung.
Chan dung tien si Viet tro thanh “nguoi hung” chong lai nan doi toan cau-Hinh-2
 Bệnh gỉ sắt ở lúa mạch gây nên tình trạng mất an ninh lương thực trên phạm vi toàn cầu
Hoan Dinh chia sẻ: “Lần đầu tiên tìm thấy gen, tôi ngạc nhiên và lo lắng mình đã làm sai điều gì vì trông nó quá bất thường. Phần lớn các gen kháng bệnh thuộc một họ gen khác ”.
Tuy nhiên, phân lập gene mới chỉ là bước đầu. Tiến sĩ người Việt sau đó đặt mục tiêu "tìm hiểu cách thức hoạt động của gene để giúp cây khỏe hơn. Đó là lúc câu chuyện bắt đầu thú vị".
Theo giáo sư Park, giới khoa học đã xác định được 28 gene kháng bệnh gỉ sắt ở lúa mạch, nhưng mới chỉ 4 gene được phân lập, trong đó ba gene do Viện giống cây trồng thuộc Đại học Sydney thực hiện.
Ông Brett Hosking, Chủ tịch tập đoàn kinh doanh lương thực Grain Growers Australia cũng cho biết, bệnh gỉ sắt thường xuất hiện vào thời điểm giao mùa khiến nông dân ở xứ sở chuột túi thiệt hại 350 triệu USD mỗi năm do sự sụt giảm sản lượng cũng như chi phí mua thuốc diệt nấm.
Chính vì vậy, công trình nghiên cứu của tiến sĩ Hoan Dinh đã và đang giúp các nhà khoa học trên thế giới hiểu biết thêm về gen kháng bệnh. Từ đó, giúp tăng năng suất cây trồng và cải thiện tính bền vững của hệ thống nông nghiệp toàn cầu.

Chấn động nội dung lá thư thiên tài Albert Einstein gửi cho Marie Curie

Albert Einstein và Marie Curie là 2 tên tuổi lớn trong lĩnh vực khoa học. Họ là những người bạn thân thiết. Einstein từng gửi thư cho Curie năm 1911 gây tò mò.

Chan dong noi dung la thu thien tai Albert Einstein gui cho Marie Curie
Albert Einstein (1879 - 1955) là nhà vật lý vĩ đại người Đức và được biết đến rộng rãi là "cha đẻ" Thuyết tương đối. Ông có những đóng góp quan trọng cho lý thuyết cơ học lượng tử và được trao giải Nobel Vật lý năm 1921. 

GS Ngô Việt Trung: Cơ chế tự chủ đào tạo tiến sĩ giúp các "lò ấp" hồi sinh

Nếu chấp nhận tiêu chuẩn thấp như Quy chế đào tạo tiến sĩ hiện hành thì chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của chúng ta sẽ suy yếu chỉ sau vài thế hệ.

Những ngày này, dư luận sôi sục chuyện 'luận án tiến sĩ cầu lông'. Đầu tiên người ta tưởng là chuyện đùa nhưng té ra là thật. Không những thế còn có ít nhất 6 'luận án cầu lông' khác.

Sau đấy người ta lại phát hiện ra hàng loạt luận án kiểu "Quá trình chuyển biến kinh tế xã hội tỉnh ..." của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội.

GS Ngo Viet Trung: Co che tu chu dao tao tien si giup cac

Dư luận cho rằng các luận án này chỉ là những báo cáo chuyên đề về địa phương nào đấy, cán bộ hành chính nào cũng soạn được. Hơn thế nữa, các luận án đều có lời lẽ và nội dung na ná giống nhau kiểu "chép và dán". Nếu tìm thêm chắc còn nhiều luận án kiểu thế này.

Nếu chúng ta không xác định được nguyên nhân của hiện tượng này và các cơ quan quản lý không đưa ra những biện pháp đúng đắn thì những câu chuyện tương tự sẽ tiếp tục xảy ra, thậm chí còn tinh vi hơn.

Lỗi hệ thống

Trước tiên phải thấy đây là lỗi hệ thống, không phải từ các cá nhân hay hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ.

Có phải 'tiến sĩ cầu lông' làm luận án vì háo danh? Anh ta là giảng viên đại học nên có nhu cầu chính đáng trở thành tiến sĩ để phục vụ công tác giảng dạy.

Ở các nước phát triển, bằng tiến sĩ là yêu cầu tối thiểu đối với giảng viên đại học. Theo quan niệm của thế giới, tiến sĩ là bằng cấp học thuật cao nhất đòi hỏi người có học vị "phải có những kết quả nghiên cứu độc đáo vượt khỏi các tri thức đã biết". Khác với bằng cấp đại học là chứng chỉ về kiến thức, bằng tiến sĩ được coi là chứng chỉ về khả năng nghiên cứu sáng tạo kiến thức, không phải cứ học là được. Vì thế người ta thường dùng từ "làm tiến sĩ" chứ không phải "học tiến sĩ".

Vậy thì luận án của 'tiến sĩ cầu lông' có xứng đáng là luận án tiến sĩ không?

Theo quan điểm nhiều nhà khoa học, luận án chỉ xứng tầm luận án tốt nghiệp đại học. Vấn đề ở đây là người hướng dẫn và hội đồng bảo vệ gồm những chuyên gia trong ngành đã thông qua luận án. Họ không hiểu yêu cầu đối với luận án tiến sĩ hay sao? Tất cả đều thực hiện theo đúng quy trình. Bộ GD-ĐT có tiến hành hậu kiểm đi nữa cũng phải dựa ý kiến của các chuyên gia trong ngành. Liệu họ có dám kết luận các đồng nghiệp của mình không đủ trình độ hay không.

Tất cả những điều này phản ánh thực tế là nền khoa học Việt Nam quá yếu kém, không đủ sức đánh giá chất lượng thực sự của luận án trong nhiều chuyên ngành. Việc hậu kiểm của Bộ GD-ĐT chắc chắn không giải quyết được vấn đề này.

Chúng ta còn nhớ có thời kỳ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội đào tạo cứ 3 ngày được 2 tiến sĩ. Bộ GD-ĐT đã tiến hành thanh tra năm 2017 và kết luận những sai phạm tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội, nhưng không có tiến sĩ nào bị rút bằng hay cơ sở nào bị đình chỉ đào tạo cả.

Vậy làm thế nào có thể đánh giá chất lượng các luận án tiến sĩ một cách khách quan?

Nhiều nước thường quy định luận án tiến sĩ phải có công bố trong những tạp chí quốc tế có sự đảm bảo về chất lượng chính vì họ muốn có một sự thẩm định từ bên ngoài. Quy chế đào tạo tiến sĩ năm 2017 của Bộ GD-ĐT cũng quy định luận án tiến sĩ phải có ít nhất một công bố trên các các tạp chí quốc tế có uy tín và một công bố trong nước. Ngoài ra, người hướng dẫn luận án tiến sĩ cùng phải có công bố quốc tế. Quy chế 2017 đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ ở tất cả các cơ sở đào tạo. Các "lò ấp" tiến sĩ không tuyển được nhiều nghiên cứu sinh nữa vì các luận án kiểu trên không thể công bố được ở các tạp chí quốc tế nghiêm túc.

Mặc dù Quy chế 2017 mới được áp dụng từ năm 2020 cho các nghiên cứu sinh tuyển vào từ năm 2017, nhưng Bộ GD-ĐT đã ban hành Quy chế đào tạo tiến sĩ mới năm 2021. Quy chế mới không yêu cầu bắt buộc có công bố quốc tế như Quy chế 2017. Thậm chí, nó cho phép luận án tiến sĩ và người hướng dẫn chỉ cần có công bố trên các tạp chí làng nhàng trong nước thấp hơn cả tiêu chuẩn đầu ra của quy chế trước năm 2017 là thời kỳ có nhiều tiêu cực.

Khi ban hành quy chế Quy chế đào tạo tiến sĩ 2021, Bộ GD-ĐT giải thích là Quy chế 2017 “thắt chặt đào tạo tiến sĩ” và “bối cảnh đã thay đổi” nên Quy chế mới chỉ “đưa ra yêu cầu tối thiểu cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học và các ngành” theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Làm như vậy Bộ đã vô tình hợp pháp hoá việc đào tạo tiến sĩ chất lượng thấp, đi ngược lại mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực quốc tế do chính Bộ đặt ra khi bắt đầu soạn thảo quy chế 2021.

Các luận án được nhắc đến ở trên cho thấy nhiều cơ sở đào tạo hàng đầu của đất nước sẵn sàng cho ra lò các luận án tiến sĩ chất lượng ngờ nghệch đến nỗi dư luận bị "choáng".

Tóm lại, có thể kết luận cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm không có tác dụng đào thải trong đào tạo tiến sĩ, không ngăn cản được việc các "lò ấp" tiến sĩ hồi sinh.

Xã hội sẽ không còn ai tin vào học vị tiến sĩ nữa?

Có một số ý kiến nói rằng nền khoa học chúng ta yếu kém, chế độ đãi ngộ lại thấp nên tiêu chuẩn đầu ra tiến sĩ cũng chỉ nên thấp thôi. Tiến sĩ trình độ thấp sẽ đào tạo các tiến sĩ trình độ thấp hơn nữa. Nếu chấp nhận tiêu chuẩn thấp như Quy chế 2021 thì chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của chúng ta sẽ suy đồi chỉ sau vài thế hệ.

Đúng ra, Bộ GD-ĐT phải đặt chuẩn đầu ra của tiến sĩ tiệm cận dần trình độ thế giới. Ngay yêu cầu công bố quốc tế của Quy chế 2017 vẫn còn thấp hơn một số nước quanh ta. Với việc quy chế 2021 không còn yêu cầu công bố quốc tế, có thể khẳng định giáo dục đại học ở Việt Nam sẽ còn tụt hậu hơn nữa so với các nước Đông Nam Á.

Nhiều ý kiến cho rằng đang tồn tại các chính sách khuyến khích việc háo danh thông qua việc sử dụng bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng tiến sĩ là một cấu thành không thể thiếu được trong hệ thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở bất kỳ nước nào. Đó chỉ là chứng chỉ năng lực cho những người làm việc trong các cơ sở đào tạo và viện nghiên cứu.

Trên thực tế, bậc lương khởi điểm của tiến sĩ chỉ hơn bậc lương khởi điểm của người tốt nghiệp đại học một bậc lương, tương đương khoảng 500.000 đồng. Có bằng tiến sĩ cũng không có nghĩa sẽ trở thành phó giáo sư nếu không có nhiều công bố trong các tạp chí quốc tế có uy tín. Như vậy, không thể nói có chính sách khuyến khích háo danh thông qua việc sử dụng bằng tiến sĩ trong hệ thống giảng dạy và nghiên cứu.

Vấn đề ở đây là đầu ra thấp sẽ tạo điều kiện cho những người háo danh ở các cơ quan quản lý nhà nước gắn mác tiến sĩ, nhất là khi nhiều cơ quan có những quy định chuẩn hoá tiến sĩ cho các vị trí quản lý không cần gì đến khả năng nghiên cứu sáng tạo cả. Những người này sẽ tìm đến những "lò ấp" tiến sĩ để có được cái bằng. Chính chuẩn đầu ra thấp đã hợp thức hoá việc đào tạo tiến sĩ ở các cơ sở này. Nếu chúng ta đào tạo "tiến sĩ thật" theo các chuẩn mực quốc tế thì làm gì có chỗ cho nạn háo danh phát triển.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh yêu cầu luận án tiến sĩ có công bố trong các tạp chí quốc tế có uy tín là tiêu chuẩn đánh giá khách quan duy nhất đối với một "tiến sĩ thật".

Có người sẽ thắc mắc tạp chí quốc tế cũng có thể mua được. Đúng là có nhiều tạp chí mới ra đời gần đây kinh doanh bằng cách duyệt bài “thần tốc” và bắt tác giả phải trả tiền. Bộ GD-ĐT chỉ cần loại bỏ các tạp chí này ra sẽ loại bỏ được hiện tượng mua bài. Trong bất kỳ chuyên ngành nào cũng có những tạp chí nghiêm túc không bắt tác giả phải trả tiền khi đăng bài. Cũng cần phải chú ý rằng, tạp chí quốc tế có uy tín ở đây cũng bao gồm các tạp chí trong nước được xếp hạng trong các danh mục tạp chí có chất lượng được quốc tế thừa nhận rộng rãi.

Không có một tiêu chuẩn khách quan thì những quy định đầu vào hay yêu cầu giải trình xã hội, liêm chính học thuật v.v. không thể ngăn cản được việc cho ra lò các “tiến sĩ rởm”. Điều tai hại nhất của Quy chế 2021 là tạo ra hành lang pháp lý cho việc này.

Chỉ cần vài năm đào tạo tiến sĩ theo Quy chế 2021 thì thật giả sẽ lẫn lộn, xã hội sẽ không còn ai tin vào học vị tiến sĩ nữa.

Tôi rất hy vọng Bộ GD-ĐT can đảm sửa lại Quy chế đào tạo tiến sĩ 2021 theo hướng nâng cao chất lượng đầu ra, giữ yêu cầu luận án có công bố quốc tế trên các tạp chí quốc tế có uy tín với những điều chỉnh thích hợp cho các ngành còn yêú về công bố quốc tế, nhưng vẫn đảm bảo tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.

Trong một xã hội liêm chính thì có thể dùng cái tốt át cái xấu, còn trong một xã hội chưa liêm chính thì phải có chế tài không cho cái xấu phát triển!

GS.TSKH Ngô Việt Trung

(Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả)

Sự nghiệp vĩ đại của nhà Vật lý từng 84 lần trượt giải Nobel

Là một trong những nhà vật lý học lỗi lạc nhất trong lịch sử nhưng Arnold Sommerfeld lại chưa một lần giành được giải thưởng Nobel danh giá.

Thời thơ ấu và con đường học vấn của Arnold Sommerfeld

Arnold Johannes Wilhelm Sommerfeld sinh ngày 5 tháng 12 năm 1868 tại Konigsberg, thuộc Đông Phổ (nay là Kaliningrad, Nga) trong một gia đình có cha là nhà Vật lý học, đây cũng là động lực thôi thúc ông theo đuổi những nghiên cứu sau này.

Từ năm 1875-1886, Sommerfeld hoàn thành chương trình giáo dục từ tiểu học tới trung học tại thành phố Königsberg, nơi ông tốt nghiệp với thành tích xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông ghi danh vào Đại học Albertina với chuyên ngành Toán học. Bằng trí thông minh tuyệt vời của mình, Sommerfeld đã nhận được tấm bằng Tiến sĩ Toán học vào năm 1891 khi mới chỉ ở tuổi 23.

Su nghiep vi dai cua nha Vat ly tung 84 lan truot giai Nobel

Arnold Sommerfeld. Ảnh: Famousscientist

“Việc cha tôi là một nhà vật lý học với niềm đam mê thu thập những vật chất trong tự nhiên cũng như theo đuổi khoa học dĩ nhiên là một niềm cảm hứng lớn. Nhưng năng lượng tích cực và trí thông minh của tôi được di truyền từ mẹ của mình, tôi nợ bà một món nợ không thể trả” – Sommerfeld viết trong cuốn tự truyện của mình năm 1917.

Những dấu mốc trong sự nghiệp

Sau khi có bằng Tiến sĩ, Sommerfeld tham dự kì thi lấy chứng chỉ giảng dạy vào năm 1892 trước khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc vào năm 1893.

Vào năm 1894, ông có cơ hội trở thành trợ lý của Felix Klein – một nhà toán học nổi tiếng người Đức về hình học Euclid. Trong thời gian làm trợ lý cho Klein, ông đã tiếp thu ảnh hưởng và hoàn thành luận văn Lý thuyết toán học về nhiễu xạ (Mathematical theory of diffraction), đây cũng là bài luận giúp ông trở thành một giảng viên chính thức. Những năm sau đó, ông cùng với người thầy của mình đã cùng biên soạn 4 cuốn sách về lý thuyết con quay hồi chuyển từ năm 1897-1910.

“Klein là người đã thu hút tôi vào các vấn đề vật lý trong toán học một cách lôi cuốn và logic. Với tôi, ông ấy là người thầy tuyệt vời nhất, không chỉ trong toán học, mà trong cả vật lý lẫn cơ học” - Sommerfeld viết trong cuốn tự truyện của mình năm 1917.

Vào năm 1906, Sommerfeld vinh dự trở thành Giám đốc Viện Vật lý của Đại học Munich. Tại đây, ông đã dành 32 năm để truyền đạt kiến thức cho rất nhiều thế hệ các nhà khoa học về cơ học, quang học, nhiệt động lực học, phương trình vi phân trong vật lý và điện động lực học.

Trong khoảng thời gian này, Sommerfeld đã tạo ra một trong những thành tựu lớn nhất của mình, thuyết quỹ đạo elip Sommerfeld. Nghiên cứu của ông dựa trên mô hình nguyên tử Bohr trước đó nhưng được hoàn thiện và bổ sung. Theo Sommerfeld, electron không chỉ chuyển động trên một quỹ đạo xác định mà các quỹ đạo này có hình dạng khác và quỹ đạo có thể nghiêng khi có mặt từ trường. Điều này đã thêm vào một số trạng thái cho phép có thể có nhiều vạch phổ khác nhau xuất hiện. Chính vì thế, mô hình nguyên tử này đã mang đến các kết quả gần sát với các giá trị thực nghiệm.

Su nghiep vi dai cua nha Vat ly tung 84 lan truot giai Nobel-Hinh-2

Sommerfeld (bên trái) và Bohr (bên phải). Ảnh: photolibrary

Một điểm nhấn đáng nhớ khác trong cuộc đời của Sommerfeld là những liện hệ với bộ óc được cho là vĩ đại nhất lịch sử - Albert Einstein. Thời điểm đó, thuyết tương đối của Einstein vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi, nhưng những đóng góp về mặt toán học của Sommerfeld đã giúp thuyết này dần được công nhận. Vào năm 1918, Sommerfeld lại trở thành người kế nhiệm của Einstein làm chủ tịch tại Deutsche Physikalische Gesellschaft (Cộng đồng vật lý nước Đức) – đây là tổ chức lâu đời nhất của những nhà vật lý học.

Là người đào tạo ra nhiều nhà khoa học cho thời đại mới của ngành vật lý cũng như là người đưa ra hằng số α (hằng số cấu trúc tinh tế) cho vật lý lượng tử, Sommerfeld đã nhận được vô số giải thưởng danh giá như: Huy chương vàng Lorentz, huân chương Planck, huân chương Oersted, …

Tuy vậy, Sommerfeld dường như không có duyên với giải thưởng Nobel khi chưa một lần chiến thắng dù được đề cử tận 84 lần trong hơn 30 năm. Vào năm 1951, ông qua đời ở tuổi 82 trong một tai nạn giao thông tại Munich, để lại niềm tiếc nuối vô hạn cho giới vật lý.

Đọc nhiều nhất

Tin mới