Việt Nam có ít bài khoa học được đăng tải trên thế giới

(Kiến Thức) - Đó là thông tin trong hội thảo “phát triển các tạp chí khoa học sức khoẻ tại Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 9 – 10/12. 

 
GS.TS Lê Vũ Anh, Chủ tịch Hội Y tế công cộng Việt Nam cho biết, hiện nay, Việt Nam có khoảng 110 tạp chí khoa học sức khoẻ, trong đó có 50% tạp chí được xuất bản dưới sự quản lý của Bộ Y tế; các tạp chí còn lại do các tổ chức thành viên của Tổng hội Y học Việt Nam quản lý. Hầu hết các tạp chí được xuất bản bằng tiếng Việt và chỉ có 3 tạp chí được xuất bản bằng tiếng Anh là: Tạp chí Tổng quan y học (Medical Teview), tạp chí Y dược Việt Nam (Vietnam Journal of Medicine and Pharmacy) và tạp chí Y tế công cộng Việt Nam (Vietnam Journal of Public Health). 
Các tạp chí khoa học sức khoẻ tại Việt Nam chưa nhận được sự đánh giá cao của đồng nghiệp quốc tế về chất lượng các bài báo, kiểm soát trùng lặp và việc bảo vệ quyền tác giả. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và chia sẻ các bài báo còn hạn chế; thiếu sự hợp tác và hỗ trợ về ứng dựng công nghệ thông tin trong phát triển tạp chí... 
Đặc biệt, số lượng các bài báo khoa học của tác giả Việt Nam đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế còn thấp: 3,43 lần/hai thập kỷ. Trong 10 trường đại học, viện nghiên cứu đứng đầu về số lượng bài báo đăng trên tạp chí quốc tế ở khối ASEAN thì không có trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam. Nguyên nhân là do nhiều cán bộ, giảng viên chưa dành thời gian cho nghiên cứu khoa học; việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu còn yếu; thiếu kỹ năng trình bày bài báo khoa học theo chuẩn mực quốc tế; rào cản về ngôn ngữ (tiếng Anh).
Vì vậy, thời gian tới, ngành y tế và các hội liên quan cần tăng cường hoạt động đào tạo và hỗ trợ các tác giả về kỹ năng viết bài báo khoa học, nộp bài trực tuyến và khuyến khích các tác giả viết và gửi bài cho tạp chí; kiện toàn các ban biên tập và ứng dụng công nghệ thông tin để hiện đại hoá các quy trình của tạp chí...
Sau hội thảo, Hội Biên tập Tạp chí Khoa học sức khoẻ dự kiến sẽ được thành lập và xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nhằm nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học sức khoẻ tại Việt Nam.

70% tiến sĩ không làm nghiên cứu khoa học

Số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu khoa học của VN thấp, hệ thống và chất lượng đào tạo giáo dục ĐH nhiều bất cập, chưa gắn kết đào tạo và nghiên cứu, khả năng tiếng Anh của giảng viên kém... là những hạn chế khiến việc hội nhập quốc tế của giáo dục ĐH VN gặp nhiều khó khăn.

Đây là những ý kiến đưa ra tại hội thảo “Giáo dục ĐH VN hội nhập quốc tế” do Quỹ phát triển ĐHQG TP.HCM tổ chức sáng 9-11.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra con số: VN hiện có khoảng 24.000 tiến sĩ và 9.000 giáo sư và phó giáo sư nhưng số công trình nghiên cứu khoa học công bố lại nằm vào nhóm thấp nhất các nước Đông Nam Á.

Khoảng 70% tiến sĩ không làm nghiên cứu khoa học mà chỉ làm các chức vụ hành chính và quản lý. Hơn nữa, theo các đại biểu, do số lượng sinh viên tăng quá nhanh nên đa số giáo sư, tiến sĩ ở các trường ĐH phải chạy sô giảng dạy, không có thời gian nghiên cứu. Kinh phí nghiên cứu khoa học ít và sử dụng chưa hiệu quả, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu thiếu và lạc hậu.

Trong khi đó, giáo sư Martin Hayden - ĐH Southern Cross (Úc) - cho rằng vai trò nghiên cứu của ĐH chưa được nhấn mạnh và chủ yếu tập trung vào việc giảng dạy thay vì nghiên cứu, nhiều giảng viên chưa có trình độ tiến sĩ. Phân bổ ngân sách của các bộ chủ quản chủ yếu tập trung vào việc trả lương, chỉ có khoảng 10% được chi cho nghiên cứu khoa học.

Do chất lượng nghiên cứu khoa học yếu kém nên năm 2012, VN chỉ đứng 76/141 quốc gia trong bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu.

Lý giải việc người học giỏi, kẻ dốt đặc cán mai

Đọc nhiều nhất

Tin mới