Phiên bản gốc pháo không giật vác vai được ra đời từ năm 1948 và đã chứng minh được sức mạnh của mình trên chiến trường Triều Tiên và Việt Nam. Nguồn ảnh: Sina.Đến phiên bản cải tiến pháo không giật M3 ra đời năm 1991, cấu tạo của nó vẫn được giữ gần như y nguyên, chỉ có thay đổi về mặt vật liệu thiết kế và cơ cấu ngắm. Nguồn ảnh: Sina.Khẩu pháo không giật vác vai này có trọng lượng khoảng 10 kg bao gồm cả đạn, nó có chiều dài 1,1 mét và yêu cầu tổ 3 người để vận hành trong đó có một xạ thủ bắn chính, một thay đạn và một cảnh giới. Nguồn ảnh: Sina.Vì các loại mũ bảo hiểm của lính Mỹ đều được trang bị hệ thống loa che tai cách âm rất tốt nên xạ thủ có thể bắn thoải mái mà không sợ ù tai phải thay người. Nguồn ảnh: Sina.Khẩu pháo không giật này có cỡ nòng 84 mm và được trang bị rất nhiều loại đạn khác nhau tùy cho từng mục tiêu, phổ biến nhất là đầu đạn nổ lõm, đạn nổ 2 lần, đạn nổ mảnh chống bộ binh, đạn xuyên phá boong-ke hầm ngầm,... Nguồn ảnh: Sina.Khẩu pháo vác vai này có tầm bắn lý tưởng khoảng 500 mét đối với mục tiêu di động, 700 đối với mục tiêu cố định và tầm bắn có thể lên tới 1000 mét nếu sử dụng đạn tăng tầm. Nguồn ảnh: Sina.Hệ thống ngắm tiên tiến trên khẩu pháo này còn cung cấp cả thông số về khoảng cách từ xạ thủ đến mục tiêu, cho phép người bắn tính toán một cách chính xác tương đối đường đạn. Nguồn ảnh: Sina.Giống với nhiều loại pháo phản lực không giật khác, khi M3 khai hỏa nó sẽ tạo ra một luồng khí phụt rất lớn ở phía sau xạ thủ, điều này gây ra hạn chế đó là khẩu súng này không thể sử dụng được trong những nơi có không gian hẹp ví dụ như dùng trong nhà. Nguồn ảnh: Sina.Có cơ cấu nòng rãnh xoắn, gia tốc đầu đạn của khẩu pháo không giật này đạt 250 mét/giây. Đây chính là thứ vũ khí được người Mỹ thiết kế ra để làm đối trọng cho khẩu RPG-7 huyền thoại của Liên Xô và dù nó không nổi tiếng bằng RPG-7 thì ít nhất nó cũng có tính năng chiến đấu gần như tương tự. Nguồn ảnh: Sina.
Phiên bản gốc pháo không giật vác vai được ra đời từ năm 1948 và đã chứng minh được sức mạnh của mình trên chiến trường Triều Tiên và Việt Nam. Nguồn ảnh: Sina.
Đến phiên bản cải tiến pháo không giật M3 ra đời năm 1991, cấu tạo của nó vẫn được giữ gần như y nguyên, chỉ có thay đổi về mặt vật liệu thiết kế và cơ cấu ngắm. Nguồn ảnh: Sina.
Khẩu pháo không giật vác vai này có trọng lượng khoảng 10 kg bao gồm cả đạn, nó có chiều dài 1,1 mét và yêu cầu tổ 3 người để vận hành trong đó có một xạ thủ bắn chính, một thay đạn và một cảnh giới. Nguồn ảnh: Sina.
Vì các loại mũ bảo hiểm của lính Mỹ đều được trang bị hệ thống loa che tai cách âm rất tốt nên xạ thủ có thể bắn thoải mái mà không sợ ù tai phải thay người. Nguồn ảnh: Sina.
Khẩu pháo không giật này có cỡ nòng 84 mm và được trang bị rất nhiều loại đạn khác nhau tùy cho từng mục tiêu, phổ biến nhất là đầu đạn nổ lõm, đạn nổ 2 lần, đạn nổ mảnh chống bộ binh, đạn xuyên phá boong-ke hầm ngầm,... Nguồn ảnh: Sina.
Khẩu pháo vác vai này có tầm bắn lý tưởng khoảng 500 mét đối với mục tiêu di động, 700 đối với mục tiêu cố định và tầm bắn có thể lên tới 1000 mét nếu sử dụng đạn tăng tầm. Nguồn ảnh: Sina.
Hệ thống ngắm tiên tiến trên khẩu pháo này còn cung cấp cả thông số về khoảng cách từ xạ thủ đến mục tiêu, cho phép người bắn tính toán một cách chính xác tương đối đường đạn. Nguồn ảnh: Sina.
Giống với nhiều loại pháo phản lực không giật khác, khi M3 khai hỏa nó sẽ tạo ra một luồng khí phụt rất lớn ở phía sau xạ thủ, điều này gây ra hạn chế đó là khẩu súng này không thể sử dụng được trong những nơi có không gian hẹp ví dụ như dùng trong nhà. Nguồn ảnh: Sina.
Có cơ cấu nòng rãnh xoắn, gia tốc đầu đạn của khẩu pháo không giật này đạt 250 mét/giây. Đây chính là thứ vũ khí được người Mỹ thiết kế ra để làm đối trọng cho khẩu RPG-7 huyền thoại của Liên Xô và dù nó không nổi tiếng bằng RPG-7 thì ít nhất nó cũng có tính năng chiến đấu gần như tương tự. Nguồn ảnh: Sina.