Phát huy nguồn lực đất nông nghiệp phục vụ cơ cấu lai nông nghiệp

Google News

Ngày 10/6/2013 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có Quyết định 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”.

Để triển khai đề án tổng thể theo Quyết định 899, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) đã xây dựng và phê duyệt 6 Đề án tái cơ cấu các lĩnh vực nhằm cụ thể hóa nội dung, giải pháp và lộ trình tái cơ cấu trong từng lĩnh vực/phân ngành cụ thể, bao gồm: Trồng trọt, Chăn nuôi, Lâm nghiệp, Thủy sản, Thủy lợi, Chế biến nông lâm thủy sản và muối. Đồng thời, xây dựng và phê duyệt 6 kế hoạch chuyên đề, là các giải pháp chính thực hiện cơ cấu lại, đó là: (1) Rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách; (2) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất; (3) Đổi mới và tăng cường công tác khoa học công nghệ; (4) Đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (5) Đổi mới cơ cấu, cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân và (6) Kiện toàn hệ thống, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước ngành. Các bộ, ngành cũng đã phối hợp và hỗ trợ ngành nông nghiệp trong việc thực hiện Đề án thông qua điều chỉnh nhiều chính sách liên quan.
Hơn 3 năm tích cực thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp (TCCNN) theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” đã đem lại nhiều kết quả nhất là trong việc đảm bảo tăng trưởng khá ổn định, xuất khẩu nông sản tăng liên tục, hiệu quả chuyển đổi sản xuất cũng thể hiện rõ nét hơn, thu hút nhiều doanh nghiệp chế vào đầu tư chế biến, hợp tác xã (HTX) có sự tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên, quá trình TCCNN cũng còn một số tổn tại như đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm, quy mô hộ sản xuất nhỏ lẻ, trang trại phát triển chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong lực lượng lao động cả nước, năng suất lao động nông nghiệp thấp, vai trò HTX còn mờ nhạt,… Có nhiều nguyên nhân hạn chế thúc đẩy quả trình TCCNN, bao gồm nhiều vướng mắc trong cơ chế chính sách và chính sách về đất đai- dù có nhiều đổi mới vẫn còn những hạn chế cần sửa đổi bổ sung.
1. Đóng góp của chính sách đất đai trong quá trình cơ cấu lại nông nghiệp
Quyết định 899/QĐ-TTg đã đề ra định hướng cơ cấu lại trong từng lĩnh vực cụ thể có liên quan đến sử dụng đất như sau:
- Tiếp tục rà soát điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu từng vùng, miền. Phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức sản xuất theo chuỗi đối với các sản phẩm chủ lực quốc gia; đồng thời, khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ.
- Chuyển mạnh đất lúa năng suất và hiệu quả thấp sang các cây trồng khác có thị trường và hiệu quả hơn, hoặc nuôi trồng thủy sản phù hợp với điều kiện sinh thái của địa phương; tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng ngô, đậu tương để chủ động nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi; giảm dần diện tích trồng sắn; phát triển sản xuất rau, hoa công nghệ cao và cây dược liệu; tiếp tục phát triển các cây công nghiệp dài ngày ở những nơi có lợi thế, theo quy hoạch.
- Phát triển các vùng chăn nuôi tập trung, quy mô lớn đối với các sản phẩm chủ lực; đồng thời duy trì và phát triển chăn nuôi nông hộ theo phương thức chăn nuôi tiên tiến, kết hợp với phát triển chăn nuôi hữu cơ, sinh thái.
- Nuôi trồng thủy sản có chứng nhận với các sản phẩm chủ lực (tôm, cá tra, nhuyễn thể,...); phát triển một số sản phẩm nuôi có tiềm năng (cá quả, rô phi, thác lác,...), phát triển nuôi biển (tôm hùm, cá biển, rong biển,...).
- Quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả rừng tự nhiên; thực hiện nghiêm chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mô hình nông lâm kết hợp. Nâng cao hiệu quả kinh tế rừng trồng, phát triển lâm nghiệp đa chức năng, trồng rừng gỗ lớn, gỗ quý và lâm sản ngoài gỗ, nhất là các loại dược liệu. Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến gỗ, sản xuất giấy, ván nhân tạo...; tổ chức sản xuất lâm nghiệp theo chuỗi giá trị, nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác trong lâm nghiệp.
- Các cơ quan quản lý được giao nhiệm vụ hoàn thành việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và đề xuất sửa đổi, hoàn thiện Chính sách đất đai theo hướng tạo thuận lợi cho tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn và quản lý, sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp. Nghiên cứu, tham mưu Chính phủ cơ chế chính sách về hỗ trợ phát triển nền nông nghiệp xanh, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, sử dụng hiệu quả tài nguyên; khắc phục ô nhiễm môi trường khu vực nông nghiệp nông thôn. Triển khai thực hiện kế hoạch chuyển đổi 1,1 triệu ha rừng phòng hộ nghèo kiệt sang rừng sản xuất theo Nghị quyết số 134/2016/QH13 của Quốc hội.
1.1. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất
Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được từng bước, hoàn thiện bổ sung và được cụ thể hóa tại 17 Điều trong Luật Đất đai năm 2013. Quy hoạch sử dụng đất đã tích cực hỗ trợ cho phát triển kinh tế được cân đối nhất là trong quá trình phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư mới, khu đô thị mới trên phạm vi cả nước; có tác dụng tích cực trong việc điều tiết thị trường, góp phần ổn định giá đất, tạo cơ sở thực tế cho các cuộc giao dịch về đất đai và tổ chức các cuộc đấu giá quyền sử dụng đất.Quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch cũng là dịp sinh hoạt dân chủ ở cơ sở, nhờ đó mà công dân tham gia cụ thể vào sự nghiệp chung có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích thiết thân của mình, trật tự xã hội được đảm bảo, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính quyền, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.
Tính đến hết ngày 31/12/2018, theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có 82% diện tích là đất nông nghiệp, trong đó đất trồng trọt chiếm 42%, đất rừng 55%, diện tích nuôi trồng thủy sản 3%. Trong đất trồng trọt, 4,12 triệu ha (chiếm khoảng 12%) là đất chuyên canh lúa.
Là một quốc gia có dân số đông và nguồn lực đất đai hạn chế, Việt Nam có diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thuộc hàng thấp nhất trên thế giới. Quy mô sản xuất nông nghiệp của hộ có xu hướng tăng nhẹ kể từ khi có đề án Tái cơ cấu, tuy nhiên tốc độ tăng chậm, chỉ đạt 0,9%/năm.
Phat huy nguon luc dat nong nghiep phuc vu co cau lai nong nghiep
Quy mô sản xuất nông nghiệp của hộ.
 Nguồn:Tính toán từ số liệu VARHS và VHLSS 2008 - 2018; Agrocensus 2020 
1.2. Quy định về giao đất, cho thuê đất, đăng ký đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Cùng với quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các chính sách liên quan đến đất đai từng bước được hoàn thiện như Luật Đất đai năm 2013, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật sửa đổi các Luật về thuế năm 2014, Luật Thủy sản 2017, Luật Lâm nghiệp 2017. Nhiều quy định về đất nông nghiệp đã có sự đổi mới, như: nâng thời gian giao đất nông nghiệp, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất (QSDĐ) nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân. Thời hạn sử dụng đất từ 20 năm đối với đất trồng cây hằng năm, 50 năm đối với đất trồng cây lâu năm (Luật Đất đai, 2003) lên 50 năm đối với các loại đất trồng cây hằng năm và đất trồng cây lâu năm (Luật Đất đai, 2013). Hạn mức nhận chuyển nhượng QSDĐ từ gấp 2 lần (theo Nghị quyết số 1126/2007/NQ-UBTVQH11, 2007) lên 10 lần (theo Luật Đất đai, 2013). Các sửa đổi chính sách góp phần đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho người có QSDĐ, khuyến khích thuê QSDĐ, góp vốn bằng QSDĐ, chuyển nhượng quyền QSDĐ, khuyến khích sử dụng đất lúa hiệu quả bằng chính sách chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa.
Hệ thống chính sách, pháp Luật Đất đai về thuê đất trong thời gian vừa qua liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện đã phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập, phù hợp hơn với những đòi hỏi thực tiễn của hoạt động cho thuê đất đó là: Pháp luật về thuê đất ngày càng hoàn thiện. Trong lĩnh vực về đất đai, ngoài Luật Đất đai năm 2013 mới được sửa đổi còn có trên 30 văn bản của Chính phủ và các Bộ, ngành có nội dung điều chỉnh liên quan đến đất đai hướng dẫn thi hành, trong đó có 09 Nghị định, trên 20 Thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành có liên quan: Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng… hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đất đai năm 2013. Các văn bản quy phạm pháp luật này là cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ đất đai; trong đó có quan hệ thuê đất giữa Nhà nước và người sử dụng đất trong thời gian qua.
Nhờ việc tăng các QSDĐ của người sử dụng đất tại Luật Đất đai 2013, đã xuất hiện ngày càng nhiều hình thức giao dịch QSDĐ nông nghiệp: chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. Người sử dụng đất có thêm các quyền về chuyển QSDĐ như cho thuê, chuyển nhượng, góp vốn bằng QSDĐ. Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tại 3.700 hộ ở 12 tỉnh, thị trường bán đất hoạt động nhộn nhịp hơn thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Tỷ lệ hộ có chuyển nhượng đất trung bình của 12 tỉnh lên tới 16,6%, trong khi tỷ lệ hộ có cho thuê đất nông nghiệp chỉ chiếm 7,1%. Những doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư vào nông nghiệp đã thay đổi nền sản xuất, đã và đang xuất hiện những đơn vị sử dụng hàng nghìn ha, cũng như hình thành nhiều cánh đồng mẫu lớn có hàng trăm hộ tham gia, với diện tích trung bình lên đến 250 ha.
Nhà nước có chính sách khuyến khích nông dân “dồn điền, đổi thửa”, chuyển đổi, chuyển nhượng đất cho nhau để khuyến khích nông dân tập trung đất nông nghiệp phục vụ sản xuất quy mô lớn, đã giao và cho thuê phần lớn diện tích đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Mức độ manh mún trong sản xuất nông nghiệp được cải thiện. Năm 2020, số thửa đất sản xuất nông nghiệp bình quân 1 hộ tăng từ 2,5 thửa năm 2016 lên 2,8 thửa năm 2020 và diện tích bình quân 1 thửa tăng từ 1.843,1 m2 lên 2.026,3 m2.Trong 5 năm (2016 - 2020), số thửa đất sử dụng bình quân 1 hộ tăng 12,00%; diện tích bình quân 1 thửa tăng 9,94% và diện tích đất nông nghiệp sử dụng bình quân 1 hộ tăng 12,31%. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn đang có xu hướng giảm đi nhanh chóng đặc biệt là hộ sử dụng trên 2ha đất nông nghiệp, năm 2016 hộ sản xuất nông nghiệp trên 2ha chiếm 11% thì đến năm 2020 chỉ còn lại 6%.
Phat huy nguon luc dat nong nghiep phuc vu co cau lai nong nghiep-Hinh-2
Cơ cấu quy mô sử dụng đất nông nghiệp của hộ
Nguồn: Điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản các năm 2011,2016, 2020 và Khảo sát mức sống dân cư các năm 2014, 2018 của Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, đến 01/7/2020, cả nước mới có 2.795 xã tiến hành dồn điển, đổi thửa, chỉ chiếm 34,47% tổng số xã khu vực nông thôn với diện tích thực hiện dồn điền, đổi thửa 790,1 nghìn ha, chiếm 6,57% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Một số vùng hầu như không triển khai thực hiện chủ trương này như: Tây Nguyên chỉ có 19 xã tiến hành dồn điền, đổi thửa với diện tích thực hiện 0,4 nghìn ha; Đông Nam Bộ 11 xã tiến hành với diện tích thực hiện 1,3 nghìn ha; Đồng bằng sông Cửu Long 66 xã với diện tích thực hiện 4,0 nghìn ha. Kết quả xây dựng cánh đồng lớn cũng rất hạn chế. Hầu hết các chỉ tiêu thực hiện trong 5 năm 2016 - 2020 đều giảm sút. Đến thời điểm 01/7/2020, chỉ có 1.051 xã có cánh đồng lớn, chiếm 12,68% tổng số xã khu vực nông thôn, giảm 31,51 điểm phần trăm so với năm 2016. Số cánh đồng lớn giảm từ 2.262 cánh đồng năm 2016 xuống 1.660 cánh đồng năm 2020; số hộ tham gia cánh đồng lớn giảm từ 619,34 nghìn hộ xuống 327,33 nghìn hộ; tổng diện tích gieo trồng của cánh đồng lớn giảm từ 579,25 nghìn ha xuống 271,2 nghìn ha. Năm 2020, bình quân 1 cánh đồng lớn có 197,18 hộ tham gia, bằng 71,93% năm 2016; diện tích bình quân 1 cánh đồng lớn 163,38 ha, bằng 63,86%.
Theo báo cáo của Bộ Tài Nguyên và Môi trường năm 2021 về kết quả thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã được Quốc hội duyệt đến năm 2020. Nhóm đất nông nghiệp khoảng 27.987,57 nghìn ha, chiếm 84,48% diện tích tự nhiên, vượt 3,51% so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội; trong đó: đất trồng lúa 3.916,58 nghìn ha (đất chuyên trồng lúa nước 3.175,81 nghìn ha); đất rừng phòng hộ 5.117,29 nghìn ha; đất rừng đặc dụng 2.293,47 nghìn ha; đất rừng sản xuất 7.995,40 nghìn ha; đất làm muối 15,60 nghìn ha; đất nuôi trồng thủy sản 785,01 nghìn ha. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong 10 năm qua về cơ bản đã đạt được các chỉ tiêu mà Quốc hội quyết định tại Nghị quyết số 17/2011/QH13 và Nghị quyết số 134/2016/QH13 (bình quân đạt khoảng 84,79%), trong đó: đất nông nghiệp vượt 3,51%.
Năm 2020, có 20.611 trang trại, giảm mạnh so với năm 2016 (33.477 trang trại) do tiêu chí công nhận trang trại đã được nâng lên. Số lượng trang trại chỉ chiếm 0,23% tổng số hộ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, nhưng là đơn vị đóng vai trò sản xuất quy mô lớn trong cơ cấu sử dụng đất của hộ. Năm 2020, đất sử dụng bình quân 1 trang trại tăng từ 5,25 ha năm 2016 lên 5,96 ha năm 2020. Trong đó, đất bình quân 1 trang trại trồng cây hằng năm tăng từ 1,77 ha lên 1,98 ha; đất trồng cây lâu năm tăng từ 2,18 ha lên 2,28 ha; đất nuôi trồng thủy sản tăng từ 0,76 ha lên 0,85 ha. Do mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cây trồng, vật nuôi nên tổng giá trị sản phẩm bán ra theo giá hiện hành của các trang trại năm 2020 đã đạt 115,96 nghìn tỷ đồng, tăng 27,21% so với năm 2016; gấp 3,0 lần năm 2011. Cải thiện tiếp cận đất đai giúp thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Trong 5 năm (2016 – 2020) số lượng doanh nghiệp nông lâm thủy sản tăng từ 3.846 doanh nghiệp lên 7.471 doanh nghiệp, trung bình tăng 194,25%. Trong tổng số 7.471 doanh nghiệp, có 4.426 doanh nghiệp nông nghiệp, gấp 2,54 lần số doanh nghiệp nông nghiệp tại thời điểm cuối năm 2015; 1.112 doanh nghiệp lâm nghiệp, gấp 1,72 lần; 1.933 doanh nghiệp thủy sản, gấp 1,32 lần.
1.3. Quy định về tài chính đất đai
Tài chính về Đất đai - Tiền sử dụng đất, thuê đất được quy định và hướng dẫn chi tiết tại Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 thay thế Luật đất đai số 13/2003/QH11. Nhà nước đã thực hiện miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, cho hộ gia đình, cá nhân thúc đẩy tập trung,tích tụ đất nông nghiệp đối với các hộ vượt hạn mức giao đất nông nghiệp. Pháp luật về thuế đã quy định ưu đãi ở mức cao nhất đối với lĩnh vực nông nghiệp nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho đời sống nông dân. Tiếp tục triển khai miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, kể cả diện tích vượt hạn mức giao đất. Điều này được quy định cụ thể tại Nghị định 21/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 20/2011/NĐ-CP ngày 23/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Khung giá đất và bảng giá đất đã được thu hẹp phạm vi áp dụng, khung giá đất được quy định chi tiết cụ thể hơn cho từng vùng nhằm nâng cao tính tự giác trong đăng ký, nộp tiền của người sử dụng đất; để tính giá bồi thường sát hơn với giá thị trường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời, các chính sách đi kèm hướng tới ưu đãi giá thuê đất cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
1.4. Quy định về quản lý sử dụng đất lúa
Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.Cụ thể, Nghị định số 62/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung điều kiện chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản. Nghị định số 62/2019/NĐ-CP cũng bổ sung quy định thủ tục đăng ký chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa. Theo quy định, đối tượng có nhu cầu chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa, gửi 1 bản đăng ký đến UBND cấp xã theo mẫu gồm: các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất trồng lúa hợp pháp (người sử dụng đất) có nhu cầu chuyển đổi sang trồng cây hàng năm, trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản; hộ gia đình, cá nhân trong nước sử dụng đất trồng lúa hợp pháp có nhu cầu chuyển sang trồng cây lâu năm. Bên cạnh đó, Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ để bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; trong đó sửa đổi, bổ sung quy định sử dụng kinh phí hỗ trợ.
Quy hoạch sử dụng đất lúa được triển khai nghiêm, đảm bảo an ninh lương thực. Đồng thời với chính sách cho phép chuyển đổi cơ cấu, đặc biệt từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm khác và nuôi trồng thủy sản, giai đoạn 2013-2019, đã chuyển đổi khoảng 405 ngàn ha gieo trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, cây ăn quả và các cây màu, cây làm thức ăn chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn, rõ nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng đồng bằng sông Hồng.
Phat huy nguon luc dat nong nghiep phuc vu co cau lai nong nghiep-Hinh-3
So sánh giá trị gia tăng bình quân một ha giữa lúa và cây trồng khác (triệu đồng/ha/năm)
Nguồn:Tính toán từ số liệu VHLSS 2018, 2020
 
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã và đang tiến hành rà soát cơ cấu các loại cây trồng chủ lực; xây dựng phương án chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, lợi thế của các vùng, miền, địa phương và nhu cầu thị trường. Diện tích cây hàng năm đã giảm gần 285 ngàn ha, trong đó cây lương thực có hạt giảm 52,8 ngàn ha. Cây lâu năm tăng 295 ngàn ha, đặc biệt cây ăn quả tăng trên 158 ngàn ha. Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng những sản phẩm có lợi thế và giảm mạnh đối với sản phẩm hiệu quả thấp như: Nhóm cây lương thực giảm từ 47,5% xuống 40,9%; nhóm cây công nghiệp hàng năm giảm từ 5,1% xuống 3,6%; rau tăng từ 12,1% lên 13,0%; nhóm cây ăn quả tăng từ 11,1% tăng lên 13,9%; nhóm cây công nghiệp lâu năm từ 17,4% lên 18,9%.
Tuy diện tích gieo trồng lúa giảm tương đối mạnh nhưng giá trị sản xuất lúa gạo vẫn tăng 0,3%/năm, năng suất tăng 2% (năm 2020 năng suất cao hơn 1,3 tạ/ha so với năm 2015), đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu 5-6 triệu tấn gạo/năm. Giá trị sản phẩm trên một ha đất trồng trọt năm 2020 ước đạt 102 triệu đồng/ha, tăng 1,3 lần so với năm 2013. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm trồng trọt tăng bình quân 8,99%/năm trong 10 năm qua. Trong trồng trọt, nhóm cây ăn quả phát triển nhanh nhất, diện tích cây ăn quả đã tăng gần 326 ngàn ha, đạt 1,1 triệu ha năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 1,1 tỷ USD năm 2013 lên 3,3 tỷ USD năm 2020, vượt kim ngạch xuất khẩu gạo và dầu thô.
1.5. Quy định về quản lý sử dụng đất nuôi trồng thủy sản
Hiện nay, nuôi trồng thủy sản đã trở thành hướng đi mới để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rà soát và xây dựng 12 quy hoạch sản xuất thủy sản, tập trung rà soát, xây dựng quy hoạch các đối tượng nuôi chủ lực như tôm nước lợ, tôm hùm, cá tra, cá rô phi, nhuyễn thể; điều chỉnh cơ cấu nuôi hợp lý, phát triển các vùng nuôi tôm, cá tập trung ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường. Nhiều mô hình đã được thử nghiệm trên các vùng khác nhau như: vùng nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm kết hợp trồng lúa hoặc rừng ngập nước, … giúp sản lượng thủy sản ở nước ta tăng đáng kể so với thời gian trước. Trên thực tế ở một số địa phương có nhiều hộ gia đình đã sử dụng một cách linh hoạt loại đất này bằng cách dùng diện tích đất có mặt nước để nuôi tôm xuất khẩu, nuôi cá lồng, cá bề kết hợp chăn thả gia súc, gia cầm đưa lại hiệu quả cao trong quá trình sử dụng đất.
Điều 139 Luật Đất đai 2013 quy định Ao, hồ, đầm được Nhà nước giao theo hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp. Theo quy định tại Điều 47 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, việc sử dụng đất có mặt nước nội địa thuộc địa phận nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tuân theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch tài nguyên nước đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước.
Đối với diện tích đất có mặt nước ở những vùng ven biển, khác với đất có mặt nước nội địa, loại đất này thường tập trung ở vùng ven biển nên ngoài mục đích nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp còn có thể khai thác sử dụng vào mục đích làm muối, sản xuất lâm nghiệp như trồng và bảo vệ rừng phòng hộ chắn sóng,… Luật Đất đai 2013 quy định việc sử dụng đất có mặt nước ven biển phải đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; bảo vệ đất, làm tăng sự bồi tụ đất ven biển; bảo vệ hệ sinh thái, môi trường và cảnh quan; không cản trở việc bảo vệ an ninh quốc gia và giao thông trên biển.
Với các quy định cụ thể về diện tích nuôi trồng và khai thác thủy sản, những năm qua, ngành thủy sản đã có những thay đổi đáng kể. Đến nay, đã phát triển toàn diện cả khai thác, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chủ lực (tôm, cá tra, các loại nhuyễn thể). Trong nuôi trồng, đã tập trung chủ yếu vào nuôi trồng các sản phẩm có lợi thế và giá trị cao; phát triển nuôi thâm canh, công nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến và nuôi theo các tiêu chuẩn chứng nhận (GAPs). Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng qua các năm, năm 2020 ước đạt 1,3 triệu ha (trong đó nuôi cá tra 6.500 ha và nuôi tôm 0,73 triệu ha), tăng 23% so với năm 2015. Tăng nhanh diện tích nuôi thâm canh, nhất là tôm thẻ chân trắng, năm 2020 ước tính đạt khoảng trên 30%.
Một số kết quả đáng chú ý của ngành thủy sản sau TCCNN là sự chuyển dịch đúng hướng: giá trị sản xuất lĩnh vực thủy sản tăng trung bình 5%/năm. Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất nuôi trồng thủy sản năm 2020 đạt khoảng 238 triệu đồng/ha, tăng trên 54 triệu đồng/ha so với năm 2016. Lĩnh vực nuôi trồng đã có bước phát triển vượt bậc, tiếp cận nhanh với trình độ khoa học kỹ thuật và quản lý của thế giới. Nhất là đối với hai sản phẩm chủ lực (tôm nước lợ và cá tra), tất cả công đoạn từ giống, tổ chức sản xuất, chế biến, thị trường.. đều đã được ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến; xuất nhiện nhiều mô hình sản xuất công nghệ cao. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8,41 tỷ USD năm 2020.
1.6. Quy định về quản lý sử dụng đất lâm nghiệp
Nhìn chung,hệ thống văn bản quy phạm, pháp luật, các cơ chế chính sách được ban hành thời gian qua khá đầy đủ và đã thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nướcvề xã hội hoá nghề rừng; huy động nguồn lực của xã hội, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng, đặc biệt của các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng vào việc bảo vệ và phát triển rừng, gắn với việc xóa đói giảm nghèo.
Một số chính sách nổi bật, tạo động lực cho phát triển ngành, gồm: bảo vệ và phát triển rừng, gắn với giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số; chi trả dịch vụ môi trường rừng; sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông, lâm nghiệp; quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên; khuyến khích đầu tư vào lâm nghiệp; tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, đầu tư phát triển rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Đất đai 2013, hiện nay có 3 loại đất rừng được xếp vào nhóm đất nông nghiệp, bao gồm: Đất rừng sản xuất; Đất rừng phòng hộ; Đất rừng đặc dụng. Theo quy định tại Khoản 33 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP thì Nhà nước giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho tổ chức quản lý rừng để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sinh sống trong khu vực rừng sản xuất là rừng tự nhiên nơi chưa có tổ chức quản lý rừng mà có nhu cầu, khả năng bảo vệ, phát triển rừng thì được Nhà nước giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên không thu tiền sử dụng đất để bảo vệ, phát triển rừng và được kết hợp khai thác các lợi ích khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 135 Luật Đất đai 2013 thì Nhà nước giao đất cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo hạn mức quy định là không quá 30 ha để sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp. Đối với diện tích đất rừng sản xuất do hộ gia đình, cá nhân sử dụng vượt hạn mức thì phải chuyển sang thuê đất; Cho thuê đất đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư trồng rừng.
Ngoài ra, Nhà nước giao đất rừng phòng hộ cho tổ chức quản lý rừng phòng hộ để quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, được kết hợp sử dụng đất vào mục đích khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Tổ chức quản lý rừng phòng hộ giao khoán đất rừng phòng hộ cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống tại đó để bảo vệ, phát triển rừng; Ủy ban nhân dân cấp huyện giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đó sử dụng.
Căn cứ Điều 138 Luật Đất đai 2013, Nhà nước giao đất rừng đặc dụng cho tổ chức quản lý rừng đặc dụng để quản lý, bảo vệ theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, được kết hợp sử dụng đất vào mục đích khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Tổ chức quản lý rừng đặc dụng giao khoán ngắn hạn đất rừng đặc dụng trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt cho hộ gia đình, cá nhân chưa có điều kiện chuyển ra khỏi khu vực đó để bảo vệ rừng. Tổ chức quản lý rừng đặc dụng giao khoán đất rừng đặc dụng thuộc phân khu phục hồi sinh thái cho hộ gia đình, cá nhân sinh sống ổn định tại khu vực đó để bảo vệ và phát triển rừng.
Lĩnh vực lâm nghiệp cơ cấu lại hướng đến quản lý, sử dụng bền vững diện tích rừng tự nhiên, thay thế các diện tích kém hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, đáp ứng tiêu chí bền vững; khuyến khích phát triển mô hình kết hợp chăn nuôi, trồng cây ăn quả và lâm sản ngoài gỗ với trồng rừng và khai thác rừng bền vững để tăng thu nhập; mở rộng áp dụng chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý rừng.
Thực hiện Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 06/8/2015 của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai rà soát, chuyển đổi một phần rừng phòng hộ ít xung yếu sang rừng sản xuất, giảm bớt diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước quản lý để giao cho khu vực ngoài nhà nước, nhằm phát huy hiệu quả kinh tế gắn với việc sắp xếp lại các công ty nông, lâm nghiệp. Năm 2020, tổng diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán là 14,677 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đạt 42,1%; Trong đó, đất rừng sản xuất là 7,818 triệu ha, đất rừng phòng hộ là 4,685 triệu ha và đất rừng đặc dụng là 2,173 triệu ha , thấp hơn mục tiêu quy hoạch đặt ra .
Rừng tự nhiên được quản lý chặt chẽ hơn, rừng trồng chuyển theo hướng đa chức năng và phát triển trồng rừng gỗ lớn, gỗ quý và lâm sản ngoài gỗ,năng suất, chất lượng và giá trị từng loại rừng đã được nâng cao. Tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát và chứng nhận nguồn gốc lô cây con đạt 90%, tăng 20% so với năm 2013. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia, hiện có trên 3.500 doanh nghiệp hoạt động (khu vực tư nhân chiếm gần 95%); sản phẩm chế biến ngày càng đa dạng về chủng loại và mẫu mã, chất lượng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Từ năm 2013 đến nay, giá trị sản xuất lĩnh vực lâm nghiệp tăng trung bình 6,2%/năm. Phát triển lâm nghiệp đã gắn bó hơn với tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân nhất là người dân tộc thiểu số, xóa đói giảm nghèo, đã kết hợp tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng, an ninhvà bảo vệ môi trường, sinh thái. Lợi nhuận của các hộ gia đình chủ rừng tham gia mô hình hợp tác, liên kết theo chuỗi sản phẩm tăng thêm từ 25-30%.
Thực hiện các chủ trương, chính sách trên cộng với chủ trương tái cơ cấu lâm nghiệp nên rừng tự nhiên được quản lý chặt chẽ hơn, rừng trồng chuyển theo hướng đa chức năng và phát triển trồng rừng gỗ lớn, gỗ quý và lâm sản ngoài gỗ,năng suất, chất lượng và giá trị từng loại rừng đã được nâng cao. Tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát và chứng nhận nguồn gốc lô cây con đạt 90%, tăng 20% so với năm 2013. Trung bình hàng năm cả nước trồng mới được 56 ngàn ha rừng tập trung, trong đó có 90% là rừng sản xuất. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia, hiện có trên 3.500 doanh nghiệp hoạt động (khu vực tư nhân chiếm gần 95% và doanh nghiệp FDI); sản phẩm chế biến ngày càng đa dạng về chủng loại và mẫu mã, chất lượng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Diện tích rừng cả nước tăng lên 14,7 triệu ha năm 2020, độ che phủ rừng tăng từ 41% năm 2013 lên 42% năm 2020; sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng đạt6,9 triệu m3 năm 2020, đáp ứng khoảng 78% nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ. Xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản năm 2020 đạt 12,37 tỷ USD, bằng 4,37 lần so với năm 2008.
Cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đã tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng. Tổng thu từ dịch vụ môi trường rừng năm 2020 ước đạt 2.800 tỷ đồng. Số tiền này được chi trả cho các chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư nông thôn. Mức thu nhập bình quân hàng năm của các hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng bình quân 1,8 triệu đồng/hộ/năm.
2. Một số vấn đề tồn tại của chính sách đất đai trong việc thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp
2.1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Về căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên quy hoạch này thường được xây dựng cho 10 năm, dẫn tới tư duy nhiệm kỳ, khi quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội thay đổi thường xuyên, quy hoạch sử dụng đất sẽ bị điều chỉnh, thay đổi theo gây xáo trộn, thiếu ổn định trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
Theo quy định của Luật Đất đai 2013 (điều 43), một quy hoạch sử dụng đất trước khi được phê duyệt phải được đưa ra để nhân dân đóng góp. Nhưng trên thực tế, quy hoạch đất đai chỉ nhận được góp ý của các ban ngành liên quan. Thậm chí, ngay cả khi quy hoạch đã được phê duyệt người dân cũng không nắm được thông tin. Việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn hạn chế gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa chính chưa được cập nhật, chỉnh lý biến động thường xuyên, kịp thời theo quy định.
2.2. Về quy định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
Một số cơ chế, chính sách tạo điều kiện thúc đẩy tập trung,tích tụ đất đai phát triển sản xuất nông nghiệp, hàng hóa tập trung, quy mô lớn chưa được ban hành hoặc chậm sửa đổi, bổ sung. Chẳng hạn Luật Đất đai 2013 cấm nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức quy định (Điều 12) và khi Nhà nước thu hồi đất Nhà nước sẽ không bồi thường về đất đối với diện tích đất ngoài hạn mức (có bồi thường tài sản đầu tư trên đất). Chính sách này làm giảm động lực tích tụ đất đai ở nông thôn. Mặt khác, Luật Đất đai năm 2013 (Điều 13) quy định theo hướng hạn chế các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội, mặc dù đã có cơ chế tự thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư nhưng nhiều trường hợp khó đạt được sự đồng thuận cao của người sử dụng đất nên không thể hình thành vùng sản xuất quy mô lớn.
Hạn mức nhận chuyển QSDĐ nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất. Không cho phép hộ có diện tích trên lớn hơn hạn mức nhận chuyển nhượng QSDĐ. Theo Điều 129 Luật Đất đai, vùng Đồng bằng sông Hồng được giao tối đa 2ha đất trồng lúa, Đồng bằng sông Cửu Long là 3ha, đồng thời được chuyển nhượng 10 lần giới hạn giao đất. Điều đó có nghĩa tổng không quá 22ha tại Đồng bằng sông Hồng và 33ha tại Đồng bằng sông Cửu Long. Hạn mức sử dụng đất thấp cũng ảnh hưởng bất lợi đến khả năng đáp ứng nhu cầu của những hộ có tiềm lực tích tụ, tập trung ruộng đất. Theo kết quả điều tra 450 hộ ở 6 tỉnh của Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT năm 2017, trên 23,7% số hộ cho rằng hạn điền thấp là yếu tố ảnh hưởng đến mua, bán và tích tụ đất đai.
QSDĐ nông nghiệp rất ít được bảo vệ đối với đất vượt hạn mức quy định. Nếu vượt trên diện tích này mà hộ muốn đăng ký chính thức thì phải thuê lại của Nhà nước, đây là nguyên nhân hộ phải trả tiền 2 lần: (i) tiền trả cho người bán; (ii) tiền thuê lại đất của Nhà nước. Trong khi đó chưa có quy định về diện tích tối thiểu hoặc thuế thừa kế QSDĐ nông nghiệp khi tách hộ.
Kết quả là quy mô đất bình quân hộ còn quá nhỏ so với các nước khác, đặc biệt quy mô đất trồng cây hàng năm bình quân hộ giảm. Diện tích còn phân tán, manh mún; tác động của chương trình “dồn điền đổi thửa” đã tới giới hạn. Số lượng trang trại còn ít, quy mô chưa đủ lớn, chủ yếu các trang trại mới hiện nay lấy từ nguồn đất thuê của chính quyền xã, chưa đảm bảo điều kiện ổn định để yên tâm đầu tư.
Ở các vùng chuyên canh phía Nam tình hình chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp đạt kết quả khá hơn ở phía Bắc nhưng cũng chưa tạo đủ tiền đề để hình thành nền kinh tế trang trại quy mô lớn. Tỷ lệ diện tích xây dựng cánh đồng lớn còn hạn chế, chủ yếu diễn ra trên đất trồng cây hàng năm và đang có xu hướng đình trệ. Số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn hạn chế, một phần quan trọng do khó tiếp cận được quỹ đất nông nghiệp quy mô đủ lớn.
Điều 167 Luật Đất đai quy định rất nhiều quyền cho người được cấp QSDĐ, nhưng rất khó thực hiện, chẳng hạn điều kiện phải có giấy chứng nhận QSDĐ là không thực tế. Ở các vùng nông thôn, việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ không nhiều. Những quy định này đã khiến nông dân không thể vốn hóa đất, ngay cả khi tài sản không có tranh chấp. Hạn chế việc chuyển đổi QSDĐ, hộ gia đình, cá nhân chỉ được chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp trong cùng một xã, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác và đất phải có giấy chứng nhận QSDĐ hoặc giấy xác nhận không có tranh chấp. Người sử dụng đất chỉ được quyền chuyển đổi hoặc chuyển nhượng đất khi đã có GCNQSDĐ (Điều 188, khoản 1 mục a, Luật Đất đai 2013). Vẫn có rủi ro trong quá trình đăng ký giao dịch đất đai do hệ thống quản lý đất đai tại địa phương. Kết quả là tỷ lệ chuyển nhượng và cho thuê đất nông nghiệp còn thấp.
Mặc dù pháp luật quy định khá chặt chẽ về các trường hợp hạn mức giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất, nhưng thực tế người sử dụng đất vẫn có thể lợi dụng những sơ hở của Luật để được giao đất vượt hạn mức nhiều lần mà vẫn không phải nộp tiền sử dụng đất. Ví dụ: một hộ gia đình có 4 người theo Luật chỉ được giao không thu tiền với diện tích trong hạn mức, nhưng Luật quy định hạn mức giao cho một hộ gia đình và một cá nhân là như nhau nên họ có thể xin tách thành 4 hộ và mỗi hộ sẽ được giao diện tích đất tối đa trong hạn mức mà Nhà nước không thu tiền sử dụng đất gây thất thu cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý đất đai.
Việc quy định giá trị quyền sử dụng căn cứ theo mục đích sử dụng đất cho thấy nhiều bất cập. Ví dụ: đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp giá trị sẽ khác so với đất ở,… dẫn tới hiện tượng chỉ bằng một quyết định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, có thể đẩy giá đất lên rất cao, có thể khuyến khích việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp vượt quá nhu cầu phát triển kinh tế.
Thủ tục chuyển nhượng giữa các hộ, thủ tục cho doanh nghiệp thuê đất còn phức tạp. Việc tiếp cận đất nông nghiệp của các doanh nghiệp còn gặp khó khăn do công tác công bố, công khai quỹ đất dành cho phát triển nông nghiệp trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên thực tế chưa tốt, chưa rõ ràng. Tác nhân tham gia phát triển nông nghiệp công nghệ cao chưa được tạo điều kiện tiếp cận đất đai. Chưa có quỹ đất ổn định, lâu dài để tiến hành quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, gắn kết với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Quy định giới hạn cá nhân, tổ chức kinh tế tiếp cận đất để tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp mà chỉ được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp nước ngoài không được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Chưa có quy định rõ vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn của nông dân. Chưa có cơ chế pháp lý để doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp dài hạn của hộ nông nghiệp sử dụng quyền thuê này làm thế chấp để vay vốn ngân hàng. Chưa có cơ chế pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông nghiệp chuyển đổi một phần diện tích xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ phục vụ cho hoạt động trước và sau sản xuất nông nghiệp. Chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng để Nhà nước tham gia vào thu hồi đất cho phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Chuyển nhượng đất nông nghiệp giữa các cá nhân và tổ chức còn diễn ra dưới hình thức giao dịch ngầm, không khuyến khích đầu tư dài hạn. Doanh nghiệp thuê đất của nông dân để thực hiện dự án quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Hộ nông dân chủ yếu cho gia đình và người thân quen thuê đất (85,1%) còn lại là cho các đối tượng khác thuê (14,9%). Hầu như chưa có mô hình thành công về góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp.
2.3. Về tài chính đất đai
Mặt hạn chế của việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp là tạo tâm lý ỷ lại, không khuyến khích sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp. Trong khi đó, mức thuế và phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp bị áp chung như các bất động sản khác, còn tương đối cao so với lợi nhuận có thể tạo ra từ sản xuất nông nghiệp. Việc chuyển nhượng đất nông nghiệp sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân ở mức 2% tương đương như các bất động sản khác nên không khuyến khích giao dịch đất nông nghiệp một cách chính thức (theo Khoản 7 Điều 2 sửa đổi các Luật về Thuế 2014) (trừ trường hợp dồn điền đổi thửa thì được miễn lệ phí trước bạ).
Thiếu cơ chế tài chính hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp. Giá đất do Nhà nước quy định, khó phản ánh đúng giao dịch thị trường. Quy định về phương pháp định giá đất chưa phù hợp thực tiễn; chưa có dữ liệu về giá đất thị trường để thuận lợi cho thực hiện xác định giá đất.
2.4. Đối với lĩnh vực trồng trọt:
Mặc dù đạt nhiều kết quả nhưng so với mục tiêu đặt ra trong Đề án Tái cơ cấu, ngành trồng trọt vẫn còn nhiều tồn tại như tốc độ tăng trưởng thấp so với 5 năm trước; chưa hình thành những chuỗi giá trị gắn sản xuất với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi trên cơ sở phát huy lợi thế; chưa có bước tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hoạch; việc phát triển một số cây công nghiệp chủ lực như cà phê, hồ tiêu, cao su... chưa phù hợp theo quy hoạch...
Để thực hiện định hướng cơ cấu lại lĩnh vực trồng trọt, cần khuyến khích tập trung,tích tụ đất đai để phục vụ sản xuất quy mô lớn, áp dụng khoa học công nghệ, theo chuỗi, nhưng còn vướng nhiều điểm trong chính sách đất đai, cụ thể:
Quy định hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển quyền đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản đối với hộ gia đình, cá nhân thông qua nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, xử lý nợ (Điều 129, 130 Luật Đất đai 2013).
Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp còn bị hạn chế. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất lúa, nếu không trực tiếp sản xuất nông nghiệp hoặc đất nông nghiệp trong khu rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái rừng đặc dụng nếu không sinh sống trong khu rừng (Khoản 3, 4 Điều 191 Luật Đất đai 2013).
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nội bộ ngành nông nghiệp còn bị hạn chế: chuyển đổi đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (Điều 57 Luật Đất đai 2013).
Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia Ngân hàng thế giới và Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (2018), việc giảm diện tích đất lúa từ 3,8 triệu ha xuống còn 3,0 triệu ha đến 3,4 triệu ha là một lựa chọn an toàn để đáp ứng nhiều mục tiêu chính sách vào năm 2030. Mức độ chuyển đổi đất lúa có thể khác biệt giữa các vùng, tùy thuộc tình hình thặng dư/thâm hụt gạo của từng vùng và mức độ bù đắp thâm hụt từ vùng đồng bằng sông Cửu Long (vùng có thặng dư lớn nhất). Tỷ lệ giảm diện tích lúa có thể ít hơn ở vùng đồng bằng sông Hồng và vùng miền núi phía Bắc so với vùng ven biển hoặc Tây Nguyên - những vùng có thể dễ dàng được bù đắp gạo từ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việc giảm về diện tích đất lúa ở các vùng khác đơn giản sẽ chỉ làm giảm thặng dư gạo khả dụng cho xuất khẩu từ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hơn nữa, việc chuyển đổi quyền sử dụng đất lúa chỉ được thực hiện trong cùng một xã, phường, thị trấn (hay phải có hộ khẩu tại địa phương) và trực tiếp là hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp nên không khuyến khích các đối tượng doanh nghiệp có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ có nhu cầu sản xuất nông nghiệp.
Việc tiếp cận đất nông nghiệp của các doanh nghiệp còn gặp khó khăn do công tác công bố, công khai quỹ đất dành cho phát triển nông nghiệp trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 48 Luật Đất đai năm 2013) trên thực tế chưa tốt, chưa rõ ràng. Mặt khác, Luật Đất đai quy định theo hướng hạn chế các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội (Điều 62 Luật Đất đai năm 2013), mặc dù đã có cơ chế tự thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư nhưng nhiều trường hợp khó đạt được sự đồng thuận cao của người sử dụng đất nên không thể tích tụ, tập trung được đất đai. Điều kiện để doanh nghiệp được giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án quy mô lớn trong nông nghiệp còn rất khó khăn và phức tạp (Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và chỉ được phép thuê đất từ chính quyền địa phương (Khoản 3 Điều 55, Khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 133, khoản 1 Điều 191 Luật Đất đai 2013). Ngoài ra, chưa có quy định rõ ràng vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp của nông dân nên việc triển khai các dự án đầu tư của doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quy mô lớn còn gặp khó khăn.
Chính sách hỗ trợ và chế tài xử lý đối với các hộ không còn tha thiết sản xuất nông nghiệp chuyển đổi sang các nghề phi nông nghiệp (như chính sách đào tạo nghề, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp…) chưa đủ mạnh nên họ vẫn có xu hướng giữ ruộng làm vật “bảo hiểm”, mặc dù đã ngừng canh tác (nhiều trường hợp bỏ hoang) hoặc cho các hộ khác thuê ruộng ngắn hạn phi chính thức.
2.5. Đối với lĩnh vực chăn nuôi
Giai đoạn 2013-3015, giá trị sản xuất lĩnh vực chăn nuôi tăng trưởng khá, trên 5%/năm. Tuy vậy giai đoạn 2016-2020, ngành chăn nuôi phải đối mặt với nhiều khó khăn do dịch bệnh (dịch tả lợn Châu Phi, dịch cúm A/H5N6 và A/H5N1, dịch lở mồm long móng ở đàn gia súc xảy ra ở nhiều địa phương...) nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất chăn nuôi chỉ đạt trung bình 1,42%/năm. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi còn gặp nhiều trở ngại có liên quan đến đất đai, chưa hình thành mô hình tổ chức gắn kết chăn nuôi hộ với doanh nghiệp đầu vào và đầu ra một cách hiệu quả. Mục tiêu chuyển chăn nuôi từ vùng đông dân cư đến vùng thưa dân cư, từ vùng đô thị ra các vùng ngoại ô chưa có nhiều kết quả.
Hiện nay, quy hoạch chăn nuôi ở một số nơi vẫn mang tính hình thức, chưa bám sát nội dung và mục tiêu tái cơ cấu. Quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán còn khá cao, chăn nuôi trang trại có xu hướng phát triển nhưng vẫn còn tự phát. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nhóm đất nông nghiệp sang đất cho chăn nuôi, chưa có hướng dẫn các chính sách về đất đai cho các tổ chức cá nhân thuê phát triển chăn nuôi, xây dựng cơ sở giết mổ, bảo quản, chế biến công nghiệp và kiểm soát tình hình ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn chăn nuôi cũng là vấn đề lớn vì Việt Nam vẫn phụ thuộc vào thức ăn nhập khẩu, quy hoạch phát triển ngành thức ăn chăn nuôi chưa được quan tâm đúng mức, để cân đối giữa diện tích trồng lúa và diện tích trồng ngô, nguồn nguyên liệu chính để làm thức ăn chăn nuôi.
Ngoài ra, một trong những nội dung khó khăn nhất hiện nay khi áp dụng Luật Chăn nuôi 2018 là việc di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư không được phép chăn nuôi. Ở nhiều nơi vùng cao người dân chủ yếu chăn nuôi theo hình thức thả rông, thì việc di chuyển cơ sở chăn nuôi lại càng khó hơn. Khó khăn không chỉ đến từ việc chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún mà qua khảo sát cho thấy, hầu hết các hộ chăn nuôi tận dụng nguồn thức ăn tại chỗ và các phụ phẩm nông nghiệp, gắn với cuộc sống sinh hoạt... đều không muốn di dời vật nuôi đi nơi khác. Ðầu tiên là việc tìm địa điểm, nhiều hộ dân chưa có đất sẽ gặp khó trong việc tìm địa điểm phù hợp và đảm bảo các quy định về khoảng cách (từ trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ đến khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, khu dân cư tối thiểu 100m). Tiếp đó là khó về tài chính bởi khi di dời sẽ phát sinh kinh phí thuê hoặc mua đất, xây dựng cơ bản.
2.6. Đối với lĩnh vực thủy sản
So với các mục tiêu đặt ra trong Đề án cơ cấu lại ngành thủy sản, nội dung tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm chủ lực và sản phẩm chế biến giá trị cao vẫn chưa đạt tốc độ yêu cầu, các mục tiêu nhằm hỗ trợ người nghèo, tạo sinh kế bền vững (tham gia chuỗi giá trị, áp dụng các tiêu chuẩn kiểm soát xã hội vào nuôi trồng và chế biến thủy sản, phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt vùng cao) còn chưa được ưu tiên đúng mức. Ngoài ra, diện tích sản xuất ở nhiều địa phương mở rộng hơn so với quy hoạch, quản lý môi trường còn lỏng lẻo dẫn đến nguy cơ dịch bệnh và khó khăn khi áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong thương mại.
Luật Thủy sản (khoản 7 Điều 2) quy định mặt nước biển là vùng nước biển quy hoạch để nuôi trồng thủy sản. Trong khi đó, Luật Đất đai (Điều 140) có quy định đất có mặt nước ven biển nhưng không giải thích rõ. Như vậy, cả hai luật chưa quy định rõ ràng trong việc xác định ranh giới giữa mặt nước biển và đất có mặt nước biển. Vì vùng ven biển đều cùng có mặt nước biển. Dẫn đến không phân biệt rõ ranh giới giữa mặt nước biển theo luật thủy sản với đất có mặt nước ven biển theo quy định của Luật Đất đai.
Luật Thủy sản (Khoản 4 Điều 6) quy định miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước sử dụng cho hoạt động nuôi trồng thủy sản của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Luật đất đai (Điểm g khoản 1 Điều 110) quy định việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được thực hiện trong các trường hợp sau đây:…Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, chưa có chính sách miễn tiền thuê đất, tiền sử dụng đất đối với cơ sở đóng mới, cải hoán tàu cá. Hiện nay, cả nước có trên 300 cơ sở đóng mới, cải hoán tàu cá để phục vụ cho hoạt động đánh bắt trên biển, góp phần giữ vững an ninh biển đảo. Nhưng những cơ sở này không được hỗ trợ về đất đai để khuyến khích đóng mới, cải hoán tàu cá.
2.7. Đối với lĩnh vực lâm nghiệp
Bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình cơ cấu lại ngành lâm nghiệp vẫn còn một số tồn tại. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch lâm nghiệp còn hạn chế, bất cập. Chất lượng rừng tự nhiên thấp, có đến 60 - 70% là rừng nghèo, tăng trưởng chưa bền vững. Năng suất rừng trồng tuy được cải thiện đáng kể so với giai đoạn trước, nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, sản phẩm chủ yếu là gỗ nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là nguyên liệu gỗ lớn cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Mặc dù đã có rất nhiều chính sách quy định về bảo vệ và phát triển rừng và đất đai liên quan đến lâm nghiệp, nhưng đến nay còn một số chính sách chưa được xây dựng, ban hành thực hiện một cách triệt để như các lĩnh vực về chế biến lâm sản, thị trường, thương mại lâm sản, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lâm nghiệp, đào tạo nâng cao năng lực cho chủ rừng, khuyến lâm. Đặc biệt trong quá trình thực hiện giữa chính sách đất đai và chính sách về giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng còn có những mâu thuẫn, chồng chéo.
Dữ liệu thống kê về tài nguyên rừng và đất rừng không thống nhất giữa hai ngành tài nguyên môi trường và nông nghiệp do sử dụng các tiêu chí phân loại đất, rừng; chỉ tiêu thống kê các loại đất, rừng không thống nhất. Chuyển mục đích sử dụng đất nông lâm trường quốc doanh có rừng nghèo kiệt không còn khả năng phục hồi sang trồng cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi gặp khó khăn. Tương tự trường hợp cắm mốc ranh giới sử dụng đất giữa các công ty lâm nghiệp phải làm thủ tục xin chuyển mục đích sử dụng rừng. Quy định về nguồn vốn sử dụng cho công tác đo đạc, lập hồ sơ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông, lâm trường... chủ yếu giao về địa phương trong khi kinh phí địa phương có hạn.
Việc quản lý, sử dụng đất tại các nông, lâm trường vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Hiệu quả sử dụng đất chưa cao; hệ thống số liệu, tài liệu, bản đồ về đất đai chưa đầy đủ và thiếu chính xác; ranh giới sử dụng đất nhiều nơi chưa được xác định rõ trên thực địa; tình trạng tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai còn phức tạp; việc chuyển sang thuê đất theo quy định của pháp luật còn chậm; diện tích đất bàn giao cho địa phương chủ yếu được thực hiện trên sổ sách, chưa có hồ sơ địa chính để quản lý, sử dụng.
Sau đợt giám sát tối cao về đất nông lâm trường năm 2015, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 112/2015/NQ-QH13 về tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Đến nay, diện tích đất có tranh chấp, lấn chiếm, đất bỏ hoang không sử dụng đã giảm đi rõ rệt, diện tích đất do các nông lâm trường tự tổ chức sản xuất đã tăng lên nhưng việc quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ các nông lâm trường (cả phần giữ lại và phần trả lại cho địa phương) hiện nay còn gặp nhiều khó khăn và thách thức.
2.8. Một số vấn đề khác liên quan đến chính sách đất đai phục vụ cơ cấu lại nông nghiệp
2.8.1. Về kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn
Đối với chủ trương, chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác, tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do hình thức sản xuất thủ công truyền thống, công nghệ thấp ở các làng nghề; xử lý có hiệu quả tình trạng ô nhiễm môi trường từ rác thải, chất thải do hoạt động trồng trọt, chăn nuôi ở khu vực nông thôn. Chính sách đất đai đối với kinh tế trang trại tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại chưa quy định đầy đủ các trường hợp đất sử dụng cho kinh tế trang trại theo quy định của Điều 142 Luật Đất đai năm 2013 về đất sử dụng cho kinh tế trang trại.
Mặt khác, chưa có chính sách cho HTX được thuê đất công ích, trong đó đất vượt 5% được thuê lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp được thuê đất làm trụ sở và sản xuất kinh doanh (hiện tại chỉ quy định đối với đối tượng hộ gia đình, cá nhân); chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất sử dụng vào làm mặt bằng xây dựng trụ sở, sân phơi, nhà kho; xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối đối với hợp tác xã nông nghiệp; chưa có chính sách miễn, giảm hoặc hỗ trợ kinh phí chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp sử dụng vào làm mặt bằng xây dựng trụ sở, sân phơi, nhà kho; xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối đối với hợp tác xã nông nghiệp.
2.8.2. Về chế biến, nông lâm thủy sản và nghề muối
Để phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ theo chuỗi; tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến sâu, bảo quản sau thu hoạch theo hướng hiện đại, nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, hiện tại chính sách đất đai còn thiếu để hỗ trợ cho việc thực hiện các chủ trương chính sách này, cụ thể:
- Chưa có chính sách về đất đai bảo vệ và ưu tiên cho việc sản xuất muối ở những vùng đất làm muối có năng suất, chất lượng cao; khuyến khích việc sử dụng những vùng đất có khả năng làm muối để sản xuất muối phục vụ cho nhu cầu công nghiệp và đời sống; phát triển vùng muối nguyên liệu; từng bước chuyển diện tích sản xuất thủ công, kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản.
- Chưa có chính sách ưu tiên quỹ đất để xây dựng các khu chế biến thủy sản trong đó ưu tiên tập trung cho các làng nghề thủy sản; di dời các cơ sở chế biến thủy sản quy mô công nghiệp nằm trong khu dân cư gây ô nhiễm môi trường; mở rộng, xây mới các cơ sở chế biến sản phẩm thủy sản mới, có giá trị gia tăng cao; xây dựng các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá: cảng cá, bến cá, chợ cá, khu trung chuyển, kho lạnh bảo quản và phân phối nguyên liệu và sản phẩm thủy sản; xây dựng các khu, hệ thống xử lý nước thải, chất thải tập trung tại các làng nghề thủy sản, cụm công nghiệp thủy sản.
- Chưa có quỹ đất ổn định, lâu dài để phát triển vùng nguyên liệu của các nhà máy chế biến, bảo quản nông sản chủ lực như cà phê, cao su, tiêu, điều, mía đường, cây ăn quả, rau ... để tiến hành quy hoạch thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tiến hành cơ giới hóa.
3. Đề xuất những thay đổi về cơ chế, chính sách đất đai phục vụ cơ cấu lại nông nghiệp trong bối cảnh mới
3.1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Công khai minh bạch trong xây dựng và triển khai quy hoạch.Siết chặt hơn việc điều chỉnh quy hoạch sau khi đã được phê duyệt và quá trình điều chỉnh phải được công khai.Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cập nhật về thông tin quy hoạch của từng thửa đất, cho phép tra cứu (có thể thu phí).
- Linh hoạt sử dụng đất nông nghiệp, trong đó có đất lúa.
- Quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung cho nông sản chủ lực.
- Rà soát lại quy hoạch 3 loại rừng phù hợp với điều kiện thực tế.
- Số hóa dữ liệu về đất, đồng bộ cơ sở dữ liệu đất đai dùng chung giữa các cơ quan chính phủ.
3.2. Về các quy định tài chính đất đai
- Trong ngắn hạn, bỏ hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến.
- Thực hiện định giá đất tại thời điểm Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, Nhà nước cho thuê đất, Nhà nước thu hồi đất, tính thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Thực hiện cơ chế này đòi hỏi phải phát triển các tổ chức định giá; đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức này đảm bảo kết quả định giá được minh bạch, khách quan, trung lập theo đúng quy định của pháp luật.
- Bố trí lại khung giá các loại đất cho phù hợp. Việc xây dựng khung giá các loại đất theo hướng đơn giản, đảm bảo thống nhất một loại đất có một khung giá. Chính phủ quy định chặt chẽ nguyên tắc, phương pháp định giá; giao quyền quyết định giá đất cụ thể cho địa phương.
- Về lâu dài cần cân nhắc áp dụng thuế tài sản để khuyến khích sử dụng hiệu quả tài nguyên mà không phải sử dụng đến các công cụ hành chính. Thay thế khung giá đất bằng xây dựng cơ sở dữ liệu giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tham chiếu.
3.3. Về các quy định giao đất, cho thuê đất, quản lý đất nông nghiệp
- Bỏ hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến.
- Cần xây dựng quy hoạch sử dụng đất thống nhất, minh bạch, ổn định, trên cơ sở đó các quy định về chuyển mục đích sử dụng đất cần sửa theo hướng, thay vì quy định các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép, Luật nên quy định về điều kiện để được chuyển mục đích sử dụng đất sẽ thuận lợi hơn cho người sử dụng đất. Từ đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay vì cho phép thì chỉ cần thanh, kiểm tra xem người sử dụng đất có đủ điều kiện để chuyển mục đích sử dụng đất hay không. Ví dụ đổi hạn mức 30%, 70%, trên 70% bằng phương thức định lượng cụ thể. Ví dụ: phân định mức ảnh hưởng từ 500m2 đất nông nghiệp, trên 1000m2 đất nông nghiệp…
- Chính sách, pháp luật về thế chấp đất đai cần được đổi mới theo hướng mở rộng phạm vi thế chấp cho các loại đất được sử dụng hợp pháp, tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai, chuyển quyền sử dụng đất đai, tạo hành lang pháp lý cho thị trường bất động sản phát triển; tổ chức tốt dịch vụ hành chính công để tạo điều kiện tuận lợi cho giao dịch thế chấp.
- Đối với đất nông lâm trường, cần có giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về đất đai, tài chính, công nợ… để thực hiện sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp theo quy định. Cần có giải pháp đặc thù cho những trường hợp đặc thù trong quá trình cổ phần hóa, chuyển thành công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc giải thể các công ty nông, lâm nghiệp.
- Khuyến khích tập trung, tích tụ đất nông nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Quy định và giám sát chặt chẽ diện tích mảnh đất nông nghiệp tối thiểu.
- Mở rộng đối tượng tài sản trên đất được ghi vào giấy chứng nhận QSDĐ.
- Giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp để tăng cường chính thức hóa giao dịch đất nông nghiệp. Tạo điều kiện đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp và khuyến khích đầu tư.
- Nới lỏng quy định về đối tượng nhận chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp, cho phép các tổ chức, cá nhân có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ được nhận quyền chuyển nhượng đất nông nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo quy hoạch đã được phê duyệt.
- Bỏ giới hạn việc chỉ được phép chuyển đổi trong cùng xã phường thị trấn. Xây dựng cơ chế tính giá trị của các thửa đất để tạo thuận lợi và làm căn cứ cho các hộ đổi đất với nhau.
- Xây dựng cơ chế đối với đất thuê từ 5 năm trở lên thì cá nhân, tổ chức đi thuê đất được thế chấp bằng giá trị thuê để vay vốn sản xuất nông nghiệp. Xây dựng khung pháp lý để bảo lãnh tín dụng dựa vào tài sản trên đất.
- Đề xuất bổ sung thêm loại đất phục vụ mục đích hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trong phân loại đất nông nghiệp. Đối với diện tích này, cho phép xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động trước và sau sản xuất nông nghiệp (như xưởng thiết bị nông nghiệp, logistics, chế biến, lưu trữ, bảo quản nông sản) trên đất nông nghiệp, diện tích được phép chuyển đổi tương ứng với sản lượng tạo ra từ vùng chuyên canh xung quanh
- Quy định rõ ràng về hai trường hợp góp vốn chuyển quyền sử dụng đất và góp vốn không chuyển quyền sử dụng đất. Xây dựng cơ chế pháp lý để doanh nghiệp nhận góp vốn thông qua nhận quyền sử dụng đất có thể thế chấp để vay vốn ngân hàng. Xây dựng nguyên tắc góp vốn bằng quyền sử dụng đất, điều kiện góp vốn, giá trị vốn góp (theo giá đất, theo sự phát triển của doanh nghiệp), cơ chế minh bạch trong hạch toán kinh doanh. Xây dựng cơ chế ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo hình thức nhận vốn góp bằng đất của người dân tại địa bàn khó khăn.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ các cá nhân đăng ký làm trang trại, gia trại tích tụ đất nông nghiệp (thủ tục địa chính, hạ tầng, kinh phí san sửa ruộng đồng, tín dụng dài hạn, lãi suất thấp để mua hoặc thuê đất nông nghiệp của các hộ nông dân khác). Hỗ trợ HTX, liên hiệp HTX thuê đất nông nghiệp của các hộ nông dân.
- Kích hoạt sự hoạt động của Quỹ phát triển đất, kết hợp với Trung tâm Phát triển quỹ đất, giúp hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp, thực hiện chức năng cung cấp thông tin, thiết kế hợp đồng, hỗ trợ pháp lý và giải quyết tranh chấp trong quá trình giao dịch đất đai giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. Đây là nền tảng để xây dựng thị trường QSDĐ nông nghiệp và phát huy quyền tài sản đối với đất nông nghiệp.
- Nhà nước thành lập “ngân hàng đất” hoặc quỹ đất do chính quyền địa phương đứng ra thu lại đất bỏ hoang hoặc đất do người dân không có nhu cầu sản xuất gửi vào, hỗ trợ sàn giao dịch đất nông nghiệp để thu mua lại diện tích đất nông nghiệp có hiệu quả sử dụng thấp theo giá thị trường và cho thuê lại cho các hộ sản xuất hàng hóa lớn, trang trại hoặc các doanh nghiệp.
- Nâng thời hạn thuê đất 5% từ 5 năm lên 20 năm và thu tiền 5 năm một lần để cá nhân, tổ chức yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh lớn.
- Cho phép UBND cấp tỉnh tham gia vào thu hồi, đền bù để có đất xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy hoạch.
- Sử dụng tổ chức thẩm định độc lập để định giá tài sản đất nông nghiệp trong các giao dịch hoặc khi Nhà nước thu hồi hoặc thuê lại. Việc định giá tài sản đất và bất động sản đi kèm phải gắn với quy hoạch, tính tới vị trí và giá trị tương lai của mảnh đất. Không phân biệt giá đất theo mục đích sử dụng. Cùng với đó cần xây dựng các tổ chức hỗ trợ, tư vấn pháp lý cho nông dân trong các giao dịch về đất đai.
- Sớm hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ với mốc thời gian cụ thể và gắn với trách nhiệm của lãnh đạo cấp huyện, cấp tỉnh.Xây dựng hệ thống quản lý đất điện tử để cung cấp thông tin số hóa về quyền sử dụng đất và giao dịch bất động sản; từ bỏ sự phụ thuộc vào “Sổ đỏ” và yêu cầu bắt buộc phải đăng ký vào Sổ địa chính của cơ quan đăng ký đất đai.
- Đấu giá quyền sử dụng đất các phần đất của Nhà nước chưa giao, chưa sử dụng để đất có chủ và được đưa vào sản xuất, kinh doanh.
- Xây dựng cơ chế hỗ trợ tín dụng dài hạn cho trang trại, HTX mua, thuê đất nông nghiệp.
- Hỗ trợ rút lao động ra khỏi nông nghiệp để tạo quỹ đất.
3.4. Về quản lý sử dụng đất lúa
- Nới lỏng quy định cho phép các cá nhân, không nhất thiết phải là hộ nông nghiệp được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất lúa theo quy hoạch đã được quy định.
- Trong ngắn hạn có thể phân quyền thêm cho địa phương thẩm định phương án chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa sang các mục đích nông nghiệp, chăn nuôi và thủy sản theo quy hoạch.Về dài hạn cần xây dựng cơ chế cho phép chuyển đổi linh hoạt giữa đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất cho chăn nuôi, đất nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch và đảm bảo các điều kiện về môi trường. Cho phép chủ tịch UBND tỉnh quyết định phương án chuyển đổi theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phân bổ.
- Cần quy định trong Luật Đất đai những yêu cầu đối với việc bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa có năng suất cao, không được xâm phạm; quy định trách nhiệm của chính quyền các cấp trong bảo vệ, mở rộng diện tích và bồi bổ, nâng cao độ phì của đất nông nghiệp. Quy định về việc quy hoạch vùng chuyên canh trồng lúa, yêu cầu về chế độ tưới tiêu khoa học, ứng dụng công nghệ sinh học…
3.5. Về quản lý sử dụng đất nuôi trồng thủy sản
- Thống nhất phân định ranh giới đất nuôi trồng thủy sản.Bổ sung chế tài để triển khai quy hoạch, giao đất và cho thuê đất đối với đất có mặt nước ven biển cho nuôi trồng thủy sản.
- Quy định rõ ràng riêng đối với trường hợp phục hồi lại mặt bằng khi chuyển trở lại đất trồng lúa. Trong trường hợp đất lúa hiệu quả kém mà phù hợp phát triển nuôi trồng thủy sản thì có thể xem xét tăng tỷ lệ diện tích được chuyển đổi cơ cấu.
3.6. Về quản lý sử dụng đất lâm nghiệp
- Tăng kinh phí, đảm bảo đầy đủ dữ liệu địa chính về đất rừng, đảm bảo quy hoạch và quản lý hiệu quả đất rừng, thúc đẩy giao đất, giao rừng và cho thuê đất rừng.
- Xây dựng tổ chức thẩm định giá độc lập để xác định giá đất rừng và giá rừng, giá tài sản trên đất rừng, tạo điều kiện cho giao đất, giao rừng, cho thuê đất rừng; hỗ trợ hoạt động của thị trường đất rừng.
- Nên giữ nguyên quy định điều kiện cho phép chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng và rừng phòng hộ để chống phá rừng và bảo vệ môi trường.
- Đồng bộ, thống nhất quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng với quy hoạch kế hoạch sử dụng đất giữa các cấp.
- Xây dựng các chính sách cho doanh nghiệp thuê rừng: (i) cho thuê rừng sản xuất, cho thuê môi trường rừng sản xuất để thực hiện sản xuất kinh doanh rừng và kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái; (ii) cho thuê môi trường rừng đặc dụng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí; (iii) cho thuê rừng phòng hộ để kết hợp bảo vệ rừng với sản xuất nông lâm ngư kết hợp hoặc kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí.
3.7. Về quản lý sử dụng đất nông nghiệp khác
- Xây dựng quy hoạch vùng chăn nuôi: từng bước chuyển chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại; chuyển dần chăn nuôi từ vùng mật độ dân số cao (đồng bằng) đến nơi có mật độ dân số thấp (trung du, miền núi); hình thành các vùng chăn nuôi xa thành phố, khu dân cư.
- Bổ sung trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất sang xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm… không cần xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Xây dựng nghị định của Chính phủ về quản lý và sử dụng đất nông, lâm trường, trong đó quy định cụ thể về giao đất cho cá nhân hộ gia đình, cộng đồng dân cư thiếu đất, cho thuê đất đối các tổ chức kinh tế, tạo điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất hiệu quả kém sang sản xuất nông-lâm kết hợp.
- Bổ sung quy định về nguồn vốn sử dụng cho công tác đo đạc, lập hồ sơ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông, lâm trường...
TS. Trần Công Thắng

>> xem thêm

Bình luận(0)