Quân đội Cuba hay có tên gọi đầy đủ là Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba chính thức thành lập năm 1960 gồm các thành phần lục quân, phòng không – không quân, hải quân và dân quân.
Tổng chỉ huy các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba là Chủ tịch Raul Castro, Bộ trưởng các Lực lượng Vũ trang Cách mạng là tướng Leopoldo Cintra Frias.
Quân số thường trực của Quân đội Cuba hiện nay gồm khoảng 85.000 người (theo thống kê năm 2011).
Lực lượng Lục quân Cuba vẫn là thành phần đông đảo nhất trong các thành phần chính cấu thành nên lực lượng vũ trang Cuba. Hầu hết trang bị của lục quân đều xuất xứ từ Liên Xô và một vài nước khác, ngoài ra còn do Cuba thực hiện nâng cấp, cải tiến trang bị.
Lực lượng xe tăng của Cuba hiện duy trì khoảng 500 chiếc gồm các loại: PT-76; T-54/55 và T-62 là loại hiện đại nhất (trong ảnh).
Lực lượng xe bọc thép chở quân/chiến đấu của Cuba gồm khoảng 1.200 chiếc (như loại BMP-1; BRDM-1/2; BTR-152/40/50/60). Tuy nhiên, có thể chỉ còn một phần hoạt động do Cuba không đủ kinh phí duy trì toàn bộ. Điều đặc biệt là dựa trên khung gầm xe bọc thép BTR-60, Cuba đã trang bị một số tháp pháo lấy từ xe tăng T-54/55, xe chiến đấu bộ binh BMP-1 biến nó thành loại xe chiến đấu mới.
Trong ảnh là tháp pháo xe chiến đấu BMP-1 (pháo chính 73mm và bệ phóng tên lửa chống tăng AT-3) lắp trên khung gầm xe bọc thép chở quân BTR-60.
Xe bọc thép BTR-60 được lắp tháp pháo xe tăng T-54/55 biến nó thành một loại xe tăng bánh lốp.
BTR-60 còn được dùng làm khung gầm lắp đặt pháo phòng không tầm thấp ZU-23-2 cỡ nòng 23mm có thể dùng cho phòng không lục quân. BTR-60 làm khung gầm cơ sở cho pháo phòng không loại 37mm 2 nòng. Ngay phía sau là hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp 9K33 Osa có thể diệt mục tiêu ở cự ly xa 15km, độ cao 12km. Ngoài loại này, phòng không Cuba còn có các loại tên lửa tầm thấp 9K31 Strela-1 (tầm bắn 4,2km), 9K35 Strela 10 (tầm bắn 5km); tầm trung 2K12 Kub (tầm bắn 24km); tầm xa S-75 (tầm bắn 45-60km), S-125 (tầm bắn 35km) và tên lửa vác vai. Tương tự lục quân, Cuba cũng tự cải tiến một số hệ thống tên lửa phòng không, chủ yếu là nâng cao tính cơ động. Trong ảnh là bệ phóng và đạn tên lửa S-75 Dvina lắp trên khung gầm cơ sở xe tăng T-54/55.
Bệ phóng và đạn tên lửa S-125 lắp trên khung gầm cơ sở xe tăng T-54/55.
Trở lại lực lượng pháo binh Cuba, lực lượng này hiện được trang bị khoảng 700 khẩu pháo kéo, pháo tự hành các loại.
Một số khẩu pháo cũng được Cuba tự cải tiến lắp lên khung gầm xe vận tải bánh lốp biến nó thành pháo tự hành. Trong ảnh là khẩu pháo kéo D-30 122mm lắp lên thùng sau xe vận tải bánh lốp cải tiến. Cuba cũng sở hữu hệ thống pháo phản lực phóng loạt rất phổ biến BM-21 Grad 40 nòng cỡ 122mm.
Cuba cũng có trong tay một số lượng nhỏ tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển 4K51 Rubezh có thể tiêu diệt mục tiêu trong phạm vi 120km trở xuống.
Lực lượng không quân chiến đấu của Cuba trang bị 3 loại tiêm kích chủ lực gồm: MiG-21; MiG-23 và MiG-29. Số lượng có thể lên tới hơn 100 chiếc nhưng thực tế còn sử dụng có lẽ chỉ ở mức vài chục chiếc.
Trong ảnh là tiêm kích cánh cụp cánh xòe siêu âm MiG-23 của Không quân Cuba.
Tiêm kích đánh chặn hạng nhẹ MiG-21.
Tiêm kích đa năng hiện đại nhất Không quân Cuba MiG-29 (khoảng 10-14 chiếc).
Lực lượng trực thăng của Không quân Cuba gồm những chiếc vận tải Mi-8/17 và chiến đấu Mi-24D (trong ảnh), số lượng khoảng 50-60 chiếc còn phục vụ.
Hải quân Cuba là lực lượng nhỏ nhất trong các thành phần Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba với quân số khoảng 3.000 người (gồm cả 500 lính thủy đánh bộ), trang bị khoảng 17-18 tàu các loại.
Chiến hạm lớn nhất của Cuba là chiếc Rio Damuji được trang bị pháo hạm 57mm, 2 tên lửa chống tàu P-15 Termit, pháo 25mm và súng máy. Tuy nhiên, hình dáng con tàu giống với kiểu tàu vận tải hơn là tàu chiến thực thụ. Dường như đây lại là sản phẩm cải tiến của Cuba dựa trên một loại tàu vận tải nào đó, trang bị thêm tên lửa chống tàu.
Hải quân Cuba còn khoảng 6 chiếc tàu tên lửa cao tốc Osa II (4 tên lửa chống tàu P-15 Termit) còn trong trang bị.
Ngoài ra, Cuba còn có 1 tàu săn ngầm lớp Pauk II, tàu quét mìn Sonya, Yevgenya và một số tàu đổ bộ nhỏ.
Quân đội Cuba hay có tên gọi đầy đủ là Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba chính thức thành lập năm 1960 gồm các thành phần lục quân, phòng không – không quân, hải quân và dân quân.
Tổng chỉ huy các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba là Chủ tịch Raul Castro, Bộ trưởng các Lực lượng Vũ trang Cách mạng là tướng Leopoldo Cintra Frias.
Quân số thường trực của Quân đội Cuba hiện nay gồm khoảng 85.000 người (theo thống kê năm 2011).
Lực lượng Lục quân Cuba vẫn là thành phần đông đảo nhất trong các thành phần chính cấu thành nên lực lượng vũ trang Cuba. Hầu hết trang bị của lục quân đều xuất xứ từ Liên Xô và một vài nước khác, ngoài ra còn do Cuba thực hiện nâng cấp, cải tiến trang bị.
Lực lượng xe tăng của Cuba hiện duy trì khoảng 500 chiếc gồm các loại: PT-76; T-54/55 và T-62 là loại hiện đại nhất (trong ảnh).
Lực lượng xe bọc thép chở quân/chiến đấu của Cuba gồm khoảng 1.200 chiếc (như loại BMP-1; BRDM-1/2; BTR-152/40/50/60). Tuy nhiên, có thể chỉ còn một phần hoạt động do Cuba không đủ kinh phí duy trì toàn bộ. Điều đặc biệt là dựa trên khung gầm xe bọc thép BTR-60, Cuba đã trang bị một số tháp pháo lấy từ xe tăng T-54/55, xe chiến đấu bộ binh BMP-1 biến nó thành loại xe chiến đấu mới.
Trong ảnh là tháp pháo xe chiến đấu BMP-1 (pháo chính 73mm và bệ phóng tên lửa chống tăng AT-3) lắp trên khung gầm xe bọc thép chở quân BTR-60.
Xe bọc thép BTR-60 được lắp tháp pháo xe tăng T-54/55 biến nó thành một loại xe tăng bánh lốp.
BTR-60 còn được dùng làm khung gầm lắp đặt pháo phòng không tầm thấp ZU-23-2 cỡ nòng 23mm có thể dùng cho phòng không lục quân.
BTR-60 làm khung gầm cơ sở cho pháo phòng không loại 37mm 2 nòng. Ngay phía sau là hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp 9K33 Osa có thể diệt mục tiêu ở cự ly xa 15km, độ cao 12km. Ngoài loại này, phòng không Cuba còn có các loại tên lửa tầm thấp 9K31 Strela-1 (tầm bắn 4,2km), 9K35 Strela 10 (tầm bắn 5km); tầm trung 2K12 Kub (tầm bắn 24km); tầm xa S-75 (tầm bắn 45-60km), S-125 (tầm bắn 35km) và tên lửa vác vai.
Tương tự lục quân, Cuba cũng tự cải tiến một số hệ thống tên lửa phòng không, chủ yếu là nâng cao tính cơ động. Trong ảnh là bệ phóng và đạn tên lửa S-75 Dvina lắp trên khung gầm cơ sở xe tăng T-54/55.
Bệ phóng và đạn tên lửa S-125 lắp trên khung gầm cơ sở xe tăng T-54/55.
Trở lại lực lượng pháo binh Cuba, lực lượng này hiện được trang bị khoảng 700 khẩu pháo kéo, pháo tự hành các loại.
Một số khẩu pháo cũng được Cuba tự cải tiến lắp lên khung gầm xe vận tải bánh lốp biến nó thành pháo tự hành. Trong ảnh là khẩu pháo kéo D-30 122mm lắp lên thùng sau xe vận tải bánh lốp cải tiến.
Cuba cũng sở hữu hệ thống pháo phản lực phóng loạt rất phổ biến BM-21 Grad 40 nòng cỡ 122mm.
Cuba cũng có trong tay một số lượng nhỏ tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển 4K51 Rubezh có thể tiêu diệt mục tiêu trong phạm vi 120km trở xuống.
Lực lượng không quân chiến đấu của Cuba trang bị 3 loại tiêm kích chủ lực gồm: MiG-21; MiG-23 và MiG-29. Số lượng có thể lên tới hơn 100 chiếc nhưng thực tế còn sử dụng có lẽ chỉ ở mức vài chục chiếc.
Trong ảnh là tiêm kích cánh cụp cánh xòe siêu âm MiG-23 của Không quân Cuba.
Tiêm kích đánh chặn hạng nhẹ MiG-21.
Tiêm kích đa năng hiện đại nhất Không quân Cuba MiG-29 (khoảng 10-14 chiếc).
Lực lượng trực thăng của Không quân Cuba gồm những chiếc vận tải Mi-8/17 và chiến đấu Mi-24D (trong ảnh), số lượng khoảng 50-60 chiếc còn phục vụ.
Hải quân Cuba là lực lượng nhỏ nhất trong các thành phần Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba với quân số khoảng 3.000 người (gồm cả 500 lính thủy đánh bộ), trang bị khoảng 17-18 tàu các loại.
Chiến hạm lớn nhất của Cuba là chiếc Rio Damuji được trang bị pháo hạm 57mm, 2 tên lửa chống tàu P-15 Termit, pháo 25mm và súng máy. Tuy nhiên, hình dáng con tàu giống với kiểu tàu vận tải hơn là tàu chiến thực thụ. Dường như đây lại là sản phẩm cải tiến của Cuba dựa trên một loại tàu vận tải nào đó, trang bị thêm tên lửa chống tàu.
Hải quân Cuba còn khoảng 6 chiếc tàu tên lửa cao tốc Osa II (4 tên lửa chống tàu P-15 Termit) còn trong trang bị.
Ngoài ra, Cuba còn có 1 tàu săn ngầm lớp Pauk II, tàu quét mìn Sonya, Yevgenya và một số tàu đổ bộ nhỏ.