Vị hoàng đế thác loạn, ngông cuồng khét tiếng Trung Hoa

Một trong những vị hoàng đế khét tiếng nhất triều đại nhà Minh của Trung Quốc chính là Minh Vũ Tông, hay còn gọi là Chính Đức Đế. Vị hoàng đế này đã cho xây dựng hẳn một kỹ viện trong cung để ăn chơi trụy lạc.

Một trong những vị hoàng đế khét tiếng nhất triều đại nhà Minh của Trung Quốc chính là Minh Vũ Tông, hay còn gọi là Chính Đức Đế. Cầm quyền 16 năm, ông để lại tiếng xấu vì sự hoang dâm và nhiều sở thích kỳ quái. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng ông là một nhà cai trị có năng lực và quyết đoán.

Trụy lạc và ngông cuồng

Vi hoang de thac loan, ngong cuong khet tieng Trung Hoa

Vũ Tông sinh ngày 26/10/1491, là con trai cả của hoàng đế Minh Hiếu Tông. Minh Vũ Tông được tôn làm thái tử ngay từ nhỏ vì cha không có phi tần. Thái tử được dạy dỗ một cách toàn diện và có thành tích xuất sắc. Rất nhiều quan chức thời đó dự đoán Vũ Tông sẽ trở thành hoàng đế nhân từ và tài giỏi như cha. Nhưng điều này đã không xảy ra.

Vũ Tông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Chính Đức và kết hôn ở tuổi 14. Khác với cha, Chính Đức Đế không quan tâm đến việc trị vì hay hoàng hậu được chỉ định của mình. Ông là người hoang dâm, sống xa hoa lãng phí, có nhiều hành động liều lĩnh, ngu ngốc và thiếu trách nhiệm, theo trang World Heritage Encyclopedia.

Nhiều khi, ông biến mất nhiều tháng khỏi cung điện của mình, có thể đi du lịch khắp đất nước hoặc chỉ ra khỏi Tử Cấm Thành. Trong khi bị thúc giục trở lại cung điện và tham gia bàn bạc vấn đề triều đình, ông thường làm ngơ tất cả kiến nghị của quan tướng.

Chính Đức Đế dần trở nên nổi tiếng vì các hành động trẻ con cũng như lạm dụng quyền lực. Ví dụ, ông cho làm một khu chợ trong cung điện, ra lệnh cho quan, binh lính và đầy tớ ăn mặc và hành động như người bán hàng. Trong khi đó, hoàng đế đóng giả làm thường dân. Bất kỳ người nào không muốn tham gia, đặc biệt là quan lại (những người coi đây là hành động xúc phạm), sẽ bị trừng phạt hoặc bãi nhiệm.

Vi hoang de thac loan, ngong cuong khet tieng Trung Hoa-Hinh-2

Hậu cung của ông đông cung tần mỹ nữ đến mức nhiều người đã chết đói vì không đủ đồ ăn. Người ta nói rằng ông thường xuyên lui tới các kỹ viện và thậm chí cho xây dựng cung điện mang tên Báo Phòng, nơi có tới hơn 200 gian nhỏ và mất tới 5 năm để xây. Ban đầu nơi đây dùng để chứa động vật như hổ báo. Sau đó nó trở thành nơi ở của các mỹ nữ để hoàng đế ăn chơi trụy lạc.

Chính Đức Đế rất thích người nước ngoài và đã mời nhiều người Hồi giáo làm cố vấn, hoạn quan.

Theo tác giả Bret Hinsch – người viết sách về quan hệ đồng tính trong các triều đại Trung Quốc, Chính Đức được tin là có quan hệ đồng tính với một nhà lãnh đạo Hồi giáo có tên là Sayyid Husain. Tuy nhiên không có bằng chứng về mối quan hệ này ở Trung Quốc.

Chính Đức Đế cũng có quan hệ với nhiều phụ nữ Hồi giáo, đặc biệt là con gái của các quan trong triều. Nhiều vũ công người Hồi giáo cũng được đưa đến cung điện để phục vụ ông. Ngoài ra, hoàng đế cũng thích phụ nữ Mông Cổ và Duy Ngô Nhĩ.

Theo các sử gia, một người phụ nữ Duy Ngô Nhĩ đã lọt vào danh sách các phi tần yêu thích nhất của hoàng đế. Người này có họ Ma, được học bắn cung, cưỡi ngựa, hát, cũng như có thể nói nhiều thứ tiếng.

Vi hoang de thac loan, ngong cuong khet tieng Trung Hoa-Hinh-3

Vị hoàng đế quyết liệt

Bên cạnh nhiều “tính xấu”, Vũ Tông cũng được nhiều nhà sử học nhận định là một người quản lý giỏi. Mặc dù sống xa hoa và từ chối tham gia hầu hết các cuộc họp, ông tỏ ra có năng lực trong các quyết định và cách quản lý của mình. Dưới thời cai trị của Chính Đức, kinh tế tiếp tục phát triển, và người dân nhìn chung rất thịnh vượng.

Năm 1518, Chính Đức còn dẫn dắt một đoàn quân về phía bắc để đẩy lùi quân Mông Cổ. Ông đã gặp kẻ thù bên ngoài thành phố Yingzhou và đánh bại họ trong một trận chiến lớn. Một thời gian dài sau trận đánh này, quân Mông Cổ đã không dám xâm lược lần nào vào lãnh thổ nhà Minh.

Một năm sau, Chính Đức Đế tiếp tục dẫn đầu một cuộc viễn chinh đến tỉnh Giang Tây ở phía nam để dập tắt cuộc nổi dậy của Hoàng tử Ning, người đã hối lộ nhiều nhân vật quan trọng trong triều đình. Nhưng khi đến nơi, hoàng đế phát hiện cuộc nổi dậy đã được dẹp bởi quan chức địa phương. Bực bội vì không được dụng quân, hoàng đế cho thả Hoàng tử Ninh và bắt ông ta một lần nữa. Tháng 1 năm 1521, Chính Đức Đế cho xử tử Hoàng tử Ning ở Tống Châu.

Chính Đức Đế cũng được nhận định là rất quyết đoán khi xử hoạn quan biến chất. Thời đó, hoạn quan Lưu Cẩn thống lĩnh đội ngũ gọi là "Bát hổ", bao gồm 8 thái giám lộng hành quyền lực nhất triều đình.

Lưu Cẩn khét tiếng vì việc lợi dụng hoàng đế trẻ để biển thủ số lượng lớn vàng bạc, lên tới hơn 16 triệu kg vàng bạc.

Có tin đồn cho rằng Lưu Cẩn định giết hoàng đế và cho cháu lên thừa kế. Chính Đức phát hiện điều này và cho hành quyết Lưu Cẩn vào năm 1510 bằng hình thức lăng trì. Theo sử sách Trung Quốc, án tử hình thi hành suốt ba ngày mới chấm dứt. Lưu Cẩn bị phanh thây bởi 3.357 nhát chém. Hoạn quan họ Lưu chết vào ngày thứ hai, khi bị chém 300-400 nhát.

Cái chết trẻ

Chính Đức Đế qua đời vào năm 1521 ở tuổi 29. Người ta nói rằng ông đã say rượu khi chèo thuyền trên hồ nước vào một ngày mùa thu năm 1520. Ông ngã khỏi thuyền, suýt chết đuối và được cứu. Tuy nhiên, ông qua đời vì nhiễm bệnh từ vùng nước này.

Lời nguyền bí ẩn ám ảnh các hoàng đế nhà Minh

Hậu thế lưu truyền, hoàng tộc nhà Minh đã bị nguyền rủa bởi một lời nguyền vô sinh đoản mệnh, vừa khủng khiếp vừa bí ẩn.

Theo lịch sử, triều đại nhà Minh có 16 vị hoàng đế. Ngoại trừ Minh Thái Tổ chạm được đến ngưỡng “thất thập cổ lai hy” (70 tuổi), Minh Thành Tổ thọ hơn 60 tuổi, vua Gia Tĩnh thọ 60 tuổi và vua Vạn Lịch thọ 58 tuổi, các vị còn lại đều sở hữu tuổi thọ không dài, đều qua đời ở tầm tuổi tứ tuần. Đoản mệnh nhất phải kể đến các trường hợp như Minh Hi Tông khi qua đời ở tuổi 23, Minh Võ Tông cũng chỉ thọ tới 31 tuổi.

Lau chùi bức tượng La hán, nhà sưu tập phát hiện bí mật giấu bên trong

Thứ được tìm thấy trong bức tượng cổ rất có thể đã cho thấy "điểm yếu chí mạng" của các bậc nam tử hán dưới thời nhà Minh.

Paul Sumner là một nhà sưu tập nghệ thuật người Úc, hiện đang làm việc tại đơn vị đấu giá Mossgreen. Tại Úc, ông Sumner được coi là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu đồ cổ châu Á.

Trong một lần đến du lịch tại Anh, Sumner đã mua được một bức tượng gỗ Trung Quốc có niên đại gần 700 năm, xuất hiện từ thời nhà Minh. Người bán cũng không rõ bức tượng có nguồn gốc từ đâu. Tác phẩm điêu khắc tạo hình đầu của một vị La hán - người đã đạt tới Niết-bàn, hoàn toàn thoát khỏi Luân hồi theo quan điểm Phật giáo.

Lau chui buc tuong La han, nha suu tap phat hien bi mat giau ben trong

Bức tượng La hán có niên đại gần 700 năm thuộc sở hữu của nhà sưu tập Paul Sumner. Ảnh: Mossgreen

Đây là món đồ cổ mà nhà sưu tập người Úc vô cùng yêu thích, song trong một lần lấy tượng ra lau chùi, ông lại phát hiện trên bức tượng có một nếp gấp nhỏ. Quan sát kỹ hơn, ông thấy bên trong nếp gấp này có nhét một tờ giấy nhỏ.

Ông Sumner đã vô cùng phấn khích, tờ giấy này không phải một tài liệu lịch sử hay "bí kíp võ công" mà là một tờ ngân phiếu nhàu nát.

Lau chui buc tuong La han, nha suu tap phat hien bi mat giau ben trong-Hinh-2

Tờ ngân phiếu được giấu kỹ bên trong bức tượng La hán. Ảnh: CBS News

Các ký tự bên trên tờ ngân phiếu cho thấy nó đã được phát hành vào năm thứ 3 dưới thời trị vì của Chu Nguyên Chương - vị hoàng đế khai quốc nhà Minh, tức năm 1371. Ngân phiếu có mệnh giá 10 quan tiền.

Theo nhà sử học về tiền tệ Trung Quốc John E. Sandrock, một quan tiền thời nhà Minh có giá trị 1.000 đồng xu, hoặc 1 ounce bạc nguyên chất. Theo đó, giá trị của tờ ngân phiếu được tìm thấy là không hề nhỏ.

Bên trên ngân phiếu còn có lời cảnh báo rằng bất kỳ kẻ nào làm giả tờ tiền sẽ bị chặt đầu, còn người tố giác tội phạm làm ngân phiếu giả sẽ được thưởng lớn.

Đây là lần đầu tiên một tờ ngân phiếu được phát hiện bên trong tác phẩm điêu khắc Trung Quốc. Việc niêm phong những lễ vật như giấy, hạt gạo hay đá quý bên trong tượng cổ là tương đối dễ lý giải nhưng một tờ ngân phiếu có giá trị sử dụng cao như thế này tại sao lại xuất hiện ở đây?

"Quỹ đen" giấu trong bức tượng?

Dựa trên niên đại trên tờ ngân phiếu và niên đại của bức tượng La hán, nhà sưu tập Paul Sumner cho rằng tờ ngân phiếu có thể đã được dùng làm lễ vật tôn giáo khi tác phẩm điêu khắc được 30 đến 50 tuổi,

Song các chuyên gia Trung Quốc lại có cách lý giải khác. Nhiều chuyên gia sử học cho rằng tờ ngân phiếu này rất có thể là khoản "quỹ đen" của một người đàn ông dưới thời nhà Minh.

Lau chui buc tuong La han, nha suu tap phat hien bi mat giau ben trong-Hinh-3

Phải chăng những người đàn ông dưới thời nhà Minh cũng biết "sợ vợ". Ảnh: Sohu

"Quỹ đen" dường như là khái niệm xa lạ với những người đàn ông thời phong kiến Trung Quốc - thời kỳ mang nặng tư tưởng "trọng nam khinh nữ". Tuy nhiên sự thật là nam giới thời cổ đại thường chuyên tâm vào việc học hành, thăng quan tiến chức, để lại việc nhà cửa, tài chính cho người vợ quán xuyến.

Trong những tình huống đặc biệt người đàn ông muốn cưới thêm vợ lẽ hoặc tìm đến chốn thanh lâu, anh ta vẫn dễ dàng bị vợ phản đối.

Đây là lý do tờ ngân phiếu bên trong bức tượng hoàn toàn có thể là khoản "quỹ đen" của một người đàn ông thời Minh. Chỉ tiếc cho chủ nhân bức tượng dù giấu diếm những vẫn chưa kịp sử dụng tờ ngân phiếu, để khoản tiền lớn bị lãng phí đến tận ngày nay!

Các chuyên gia vẫn đang đi tìm lời giải chính xác cho sự xuất hiện của tờ ngân phiếu bên trong bức tượng La hán. Tuy nhiên, chỉ riêng việc phát hiện tờ ngân phiếu đã khiến giá trị bức tượng tăng lên mức 30.000 - 40.000 USD.  

Mỗi lần đánh trận Chu Nguyên Chương lệnh cho tướng sĩ mang vợ đến 1 nơi

Đây thực sự là một tính toán vô cùng thâm hiểm của Chu Nguyên Chương.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương là vị hoàng đế khai quốc của Hoàng triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến 1398.

Các sử gia gọi thời kỳ cai trị của ông là Hồng Vũ Chi Trị. Chu Nguyên Chương cũng được xem như là một trong những hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Quốc nhờ các công trạng to lớn của mình với đất nước, nhưng cũng bị chê trách vì sự hà khắc, cũng như sát hại hàng loạt những công thần khai quốc trong thời gian nắm quyền.

Vào giữa thế kỷ XIV, cùng với nạn đói, thiên tai, dịch bệnh và các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, Chu Nguyên Chương trở thành nhà lãnh đạo của một lực lượng đã chinh phục Trung Hoa và lật đổ nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á.

Để gây dựng nên một đế chế, không thể không sở hữu một lực lượng quân sự hùng hậu. Và Chu Nguyên Chương cũng không ngoại lệ, nhờ có lực lượng tướng sĩ hùng hậu mà ông mới có thể xây dựng nên Minh triều ổn định sau này.

Moi lan danh tran Chu Nguyen Chuong lenh cho tuong si mang vo den 1 noi

Hình ảnh nhân vật hoàng đế nhà Minh - Chu Nguyên Chương trên phim.

Chúng ta đều biết rằng, các bậc đế vương thời xưa đều dùng Hổ phù để thuận lợi hơn trong việc nắm giữ quân đội và đây cũng chính là tín vật quan trọng để điều binh khiển tướng.

Nhưng trải qua các thời kỳ lịch sử, Hổ phù đã không theo kịp bước tiến của thời đại, bởi các vị hoàng đế ở mỗi triều đại đều tốn rất nhiều sức, bằng nhiều cách khác nhau để củng cố quyền lực và nắm chắc quyền hành trong quân đội.

Trong sử sách ghi lại, mỗi lần Chu Nguyên Chương phái quân đội đi đánh trận, ông đều yêu cầu tướng sĩ trước khi tướng sĩ xung trận phải đem vợ con đi cùng và họ sẽ được bố trí ở trong một doanh trại dành cho người nhà tướng sĩ.

Khu vực này ngày đêm có người chuyên môn canh gác, nói một cách hoa văn thì chính là bảo vệ cho người nhà của tướng sĩ, để họ yên tâm đánh giặc.

Từ cách làm này, có thể thấy được tính toán đầy thâm hiểm của hoàng đế nhà Minh Chu Nguyên Chương.

Thông qua cách làm này, hoàng đế sáng lập Minh triều Chu Nguyên Chương đã lấy chính người thân của các tướng sĩ để ràng buộc và khống chế các bề tôi dưới trướng của mình.

Moi lan danh tran Chu Nguyen Chuong lenh cho tuong si mang vo den 1 noi-Hinh-2

Bạn thử nghĩ xem, vợ con bạn đang ở trong tay một đối tượng nào đó, liệu bạn có dám manh động làm gì đó đắc tội với hắn không?

Cũng theo suy nghĩ này, Chu Nguyên Chương cho rằng, chỉ có giữ người thân của các tướng sĩ trong tay làm con tin, họ mới không dám phản bội và hết mình đánh trận, phục vụ cho lợi ích của triều đình, phục vụ cho lợi ích của hoàng đế và thiên hạ nhà Minh.

Trên thực tế, cách làm này của Chu Nguyên Chương khi đó đã rất hữu dụng, tướng sĩ không một ai dám không trung thành.

Nhưng trên chiến trường luôn luôn có thương vong, những người phụ nữ sống trong doanh trại dành cho người nhà tướng sĩ, không ít người sau đó đã mất chồng và vẫn phải ở lại đó, tuyệt vọng, chán chường.

Chiến tranh kết thúc, những doanh trại đó được đổi tên thành "Quả phụ doanh".

Moi lan danh tran Chu Nguyen Chuong lenh cho tuong si mang vo den 1 noi-Hinh-3

Ảnh minh họa.

Sự tồn tại của "Quả phụ doanh" sau đó cũng dấy lên nhiều lời bàn tán. Về sau, khai quốc công thần nhà Minh là Lưu Cơ đem việc này ra thương lượng với Chu Nguyên Chương, nói rằng việc để người nhà của các tướng sĩ sống cùng nhau như thế, hơn nữa họ đều là những người mất chồng, rất dễ hình thành nên sự u uất, là chuyện không hay.

Chu Nguyên Chương nghe có lý, nên mới cho phép những người phụ nữ ấy nếu muốn đi bước nữa thì đi cho bước nữa, nếu không thì trở về nhà mẹ đẻ phụng dưỡng cha mẹ. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới