Trạng nguyên trẻ nhất lịch sử khoa bảng Việt Nam

Không chỉ là vị trạng nguyên trẻ tuổi nhất lịch sử khoa bảng Việt Nam, ông còn được đích thân vua phong là "Khai quốc trạng nguyên". Tên của ông được đặt cho 1 con đường ở trung tâm thủ đô Hà Nội ngày nay.

Nguyễn Hiền (1234 – 1256) được coi là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Ông đỗ Trạng nguyên khi chỉ mới 13 tuổi và được vua ban 4 chữ “Khai quốc công thần”.

Trạng nguyên trẻ nhất lịch sử khoa bảng Việt Nam: Được tôn làm thần

Nguyễn Hiền sinh ra trong 1 gia đình nghèo ở làng Dương Miện, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường, lộ Sơn Nam (nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Từ nhỏ ông đã có tinh thần hiếu học và có tài năng học hành thiên bẩm. Ông học rất thông minh, đọc 1 trang sách 1 lần là thuộc nên ông đã đọc được rất nhiều sách quý. Năm 11 tuổi, Nguyễn Hiền nổi tiếng khắp xứ Sơn Nam và được mệnh danh là thần đồng, nhiều chí sĩ xa gần đến thử tài đều bái phục.

Trạng nguyên trẻ nhất lịch sử khoa bảng Việt Nam ảnh 1

Truyện tranh về Trạng nguyên Nguyễn Hiền.

Năm 1247, triều đình nhà Trần mở khoa thi Tam khôi để chọn Trạng nguyên, Nguyễn Hiền đã xuất sắc đạt được danh hiệu Trạng nguyên khi chỉ 13 tuổi và được vua Trần Thái Tông tặng 4 chữ “Khai quốc Trạng nguyên”. “Bài thi nhà vua đề là Áp tử từ kê mẫu du hồ phú, tức bài phú nói về con vịt từ giã mẹ gà đi chơi hồ. Nội dung đề ra khá rộng và trừu tượng, lại yêu cầu diễn đạt bằng thể phú. Nguyễn Hiền đã viết một bài phú có tính chất nghị luận sâu sắc, vừa thể hiện được nhận thức về cuộc sống, vừa tỏ rõ khả năng uyên bác, văn chương. Vua đọc xong phê luôn hai chữ Thưởng tứ và lấy đỗ Trạng nguyên, tặng 4 chữ Khai quốc Trạng nguyên", sách Những trạng nguyên đặc biệt trong lịch sử Việt Nam viết.

Tuy nhiên, do còn quá nhỏ, vua không giao chức quan luôn cho Nguyễn Hiền mà cho ông về quê 3 năm học hành rồi mới bổ dụng. Đến tuổi, ông được vua triệu về kinh đô, cho học tiếp Tam giáo khoa chủ, tức đạo Lão, đạo phật, đạo Khổng và bổ nhiệm chức quan. Theo cuốn Những Trạng nguyên đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Công (người đứng đầu bộ Công, tương đương chức bộ trưởng ngày nay).

Trạng nguyên trẻ nhất lịch sử khoa bảng Việt Nam ảnh 2

Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở thôn Dương A.

Trong những năm làm quan triều đình, Nguyễn Hiền đã hiến nhiều kế sách phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, Chiêm Thành. Ông cũng cho đắp đê quai vạc sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, giúp nông nghiệp phát triển.

Sử sách không viết nhiều về trạng nguyên Nguyễn Hiền, mà những câu chuyện về ông đa phần là giai thoại truyền miệng. Tiêu biểu nhất phải kể đến việc ông giúp nhà Trần “gỡ bí” câu đố “Xuyên sợi chỉ qua ruột ốc” của sứ thần nhà Nguyên.

Năm 1255 (có 1 số tài liệu ghi 1256), khi mới 21 tuổi, Nguyễn Hiền bị bệnh nặng qua đời, ông được an táng ở thôn Dương A, gần chùa Hà Dương. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là "Đại vương thành hoàng" và tôn làm thần ở 32 nơi. Hiện, tên của Trạng nguyên Nguyễn Hiền được đặt cho 1 con đường ở trung tâm thủ đô Hà Nội. Ở quê hương của ông, đền thờ Nguyễn Hiền vẫn in đậm dấu tích xưa, người dân nơi đây tự hào vì vùng quê mình là nơi sản sinh ra vị Trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng nước ta.

Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh giữ kỷ lục đáng tự hào nào?

Là vị Trạng nguyên đi học muộn nhất - Nguyễn Quốc Trinh không chỉ tạo ra những giai thoại hay mà còn để lại cho đời tấm gương về sự khảng khái.

17 tuổi mới đi học

Nguyễn Quốc Trinh (1624 - 1674) người làng Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Đại Áng, Thanh Trì - Hà Nội). Cuộc đời làm quan của ông nổi tiếng không chỉ bởi sự khảng khái, liêm khiết, mà còn khiến dân gian thương cảm nuối tiếc về cái chết giữa đám loạn quân.

Dự đoán ngày mới 8/11/2024 cho 12 con giáp: Dần vội vã

Xem tử vi hàng ngày, tử vi 12 con giáp hôm nay cho thấy vận thế của người tuổi Dần vội vã chạy nước rút để hoàn thành công việc đúng hạn. Trong khi đó, người tuổi Tỵ trau dồi kỹ năng.

Du doan ngay moi 8/11/2024 cho 12 con giap: Dan voi va
 Tử vi 12 con giáp hôm nay ngày 8/11/2024, vận thế của người tuổi Tý cầu toàn. Tình cảm: Người tuổi Tý có vận trình tình duyên khởi sắc. Công việc: Con giáp này thích sự cầu toàn nên thúc ép bản thân làm việc một cách chỉn chu nhất. Tiền bạc: Tuổi Tý tìm hiểu kỹ các dự án đầu tư trước khi đưa ra quyết định.

Đỗ Lý Khiêm và Lương Đắc Bằng nhường nhau danh hiệu Trạng nguyên

Đỗ Lý Khiêm và Lương Đắc Bằng ngang tài ngang sức khiến cho vua Lê Hiến Tông và các quan trường thi không thể chấm ai hơn, ai kém.

Do Ly Khiem va Luong Dac Bang nhuong nhau danh hieu Trang nguyen

Chùa Phúc Thắng ở Song Lãng – nơi ghi nhiều dấu ấn Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm. 

Việc phân định cao – thấp chỉ có thể dựa vào ý trời bằng cách “tung quyển thi” vào một vòng tròn.
Khoa thi Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499) đời vua Lê Hiến Tông được xem là khó phân định nhất triều nhà Lê. Nhưng cuối cùng, nhờ vào cách tung quyển thi vào ô vòng tròn mà Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên, Lương Đắc Bằng đỗ Bảng nhãn.
Nhân tài mồ côi
Sách “An Nam cửu kinh long” của Cao Biền vào thế kỷ 8 đã viết về thế đất: “Ngũ mã đồng quần/ Thất tinh ủng hậu/ Chiểu Lãng, Ba Đậu/ Địa phát khôi khoa” (Năm con ngựa cùng bày/ Chòm thất tinh nâng đỡ phía sau/ Chiểu Lãng, Ba Đậu/ Đất phát người đỗ đạt).
Tiên đoán của Cao Biền phần nào được xem là chính xác khi mạch khoa danh của vùng đất Ngoại Lãng xưa (Song Lãng nay) và các làng phụ cận thuộc hương Mần Để nhiều phần rạng rỡ.
Sự học ở hương Mần Để xưa có lẽ được tính từ Đỗ Đô (1042 - 1170), tức Đạt Mạn thiền sư. Theo sử sách, ông theo cha mẹ về sống ở làng Ngoại Lãng (nay thuộc xã Song Lãng). Cùng với vua Lý Anh Tông, Đỗ Đô là thiền sư thuộc thế hệ thứ ba của thiền phái Thảo Đường.
Năm 1066 triều Lý Thánh Tông, Đỗ Đô được cử sang Trung Hoa tham dự khoa thi Bạch Liên của nhà Tống (khoa thi Tiến sĩ về Phật học), và đỗ Trạng nguyên. Trở về nước, Đỗ Đô được vua Thánh Tông cử làm quan văn tới chức Vệ Đại phu và ban pháp hiệu là Đạt Mạn. Về sau Đỗ Đô xin vua xây dựng và tu hành tại chùa Phúc Thắng tại quê nhà Ngoại Lãng.
Kể từ thế kỷ 15 về sau, sự học nơi đây càng mạnh mẽ hơn, tiêu biểu là sự góp mặt của hai anh em nhà khoa bảng họ Đỗ là Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm khoa Kỷ Mùi (1499), và Hội nguyên Tiến sĩ Đỗ Lý Oánh khoa Mậu Thìn (1508).
Theo “Từ điển địa chí huyện Vũ Thư”, Đỗ Lý Khiêm (chưa rõ năm sinh, mất năm 1512) là người làng Ngoại Lãng, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ, nay là xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Tương truyền, cha mẹ ông sinh được hai người con trai, Đỗ Lý Khiêm là anh, Đỗ Lý Oánh là em. Cha mất sớm, ba mẹ con Đỗ Lý Khiêm phải sống nhờ ở quán nước ven đường nhưng cả hai anh em đều chăm học, sáng dạ, hiếu thảo nên được nhiều người giúp đỡ.
Năm 1499 triều đình nhà Lê mở khoa thi, vua Lê Hiến Tông cần người hiền tài giúp trị quốc nên ra chỉ dụ. Việc này, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh.

Khoa mục là con đường chính của người làm quan, đường chính mở thì chân nho mới xuất hiện. Cho nên ngày xưa dùng khoa lấy người tài giỏi phải đặt quy chế chia vị cho nghiêm, phải định thể lên dán tên cho chặt, có lệnh cấm bảo nghĩa cho nhau, đổi sách cho nhau, cốt để ngăn ngừa mầm gian, thu nhiều người giỏi, để cung cấp cho nhu cầu dùng người vô cùng của thiên hạ.

Phép chọn kẻ sĩ của tổ tông ta bắt chước đời xưa mà làm, đến nay quy mô rộng lớn, đã rất kỹ lại đầy đủ. Song phép lập đã từ lâu, tệ xấu theo đó mà nảy sinh, kẻ tầm thường thì lạm vào hàng thi đỗ, người thực học thì bị gạt ra ngoài vòng, lời bàn tán xôn xao, lòng học trò chưa thỏa.

Trẫm giữ cơ nghiệp lớn, rạng tỏ đạo công, sùng chuộng lòng thành, muốn văn hồi phong tục thuần phác, ngăn cấm lề thói phù hoa, mong trừ bỏ thói tệ kiêu bạc. Để cho bậc hiền triết nối gót bước lên, việc phòng giữ phải đặt ra minh bạch”.

Đỗ Lý Khiêm tham gia ứng thí. Khoa thi này còn có một nhân tài lừng lẫy, đó là Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa), cũng nổi tiếng là thần đồng từ bé và là thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Vượt qua các cuộc thi Hương, thi Hội, 55 sĩ tử trong đó có cả Lương Đắc Bằng và Đỗ Lý Khiêm bước vào kỳ thi cuối cùng là thi Đình. Khi các quan chủ khảo chấm bài thì thấy có 2 bài rất nổi trội, là 2 bài của Lương Đắc Bằng và Đỗ Lý Khiêm. Vì khoa thi chỉ chọn 1 Trạng nguyên nên các quan chấm bài rất kỹ lưỡng, nhưng cả 2 bài văn sách đều có văn tài hay như nhau, không thể xác định được bài nào vượt trội hơn.

Đọc nhiều nhất

Tin mới