Tuy nhiên đối với những hoàng hậu của thời vua chúa phong kiến Trung Quốc thì hôn nhân chỉ là là hôn nhân chính trị, có lúc rất đau khổ, có khi lại cảm thấy bất lực, do vậy họ sẽ không cảm nhận được niềm hạnh phúc trong đêm tân hôn.
![]() |
| Ảnh minh họa. |
Trong ngày đại hôn của Hoàng đế, trình tự hôn lễ tương tự như với người dân bình thường, đều có “lục lễ” gồm nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, cáo kỳ, thân nghênh. Tuy nhiên hôn lễ của hoàng gia thì long trọng và tinh tế hơn so với bách tính. Hoàng đế sẽ cử người tới rước cô dâu, đồng thời người nhà của cô dâu sẽ tiễn họ về cung, còn Hoàng đế không phải đích thân tới rước.
Lễ vật của nhà vua thường là những lễ vật vô cùng quý giá, dưới triều đại nhà Hán thì rất nhiều vàng thỏi và châu báu ngọc ngà sẽ được tính vào lễ vật. Ở thời Đông Hán, nhi nữ của Lương Ký được lựa chọn là hoàng hậu, Hán Hằng đế Lưu Chí thưởng 20.000 lượng vàng, mọi lễ vật đều gấp đôi so với những quy định cũ.
Trên thực tế, mỗi quá trình của “lục lễ” thì Hoàng đế đều phải gửi kèm lễ vật tới nhà cô dâu. Không kể tới số lần đại hôn của Hoàng đế, thì mỗi lần tổ chức đều được tiêu tốn rất nhiều tiền bạc.
Đặc biệt ở thời Mãn Thanh, sau ngày đại hôn thì hoàng đế và hoàng hậu cần ở Khôn Ninh cung tròn 1 tháng sau đó mỗi người tự về cung điện của mình. Còn ở thời Thanh, chỉ có vua Khang Hy tuân thủ nguyên tắc của luật lệ đó, vua Đồng Trị chỉ ở 2 ngày, vua Quang Tự ở 6 ngày.
Vị hoàng hậu buồn trong ngày đại hôn nhất có lẽ phải kể tới Long Dụ hoàng hậu thời nhà Thanh. Vua Quang Tự bị Từ Hy thái hậu ép lấy biểu tỷ của mình là hoàng hậu Long Dụ, nhưng vua Quang Tự yêu nhất lại là Trân phi, chính vì thế trong đêm tân hôn vua Quang Tự chỉ ôm Long Dụ hoàng hậu mà khóc, ông không hề thị tẩm nàng trong thời gian dài. Cuộc hôn nhân của Long Dụ hoàng hậu chính là vật hy sinh của hôn nhân chính trị.


