6. Phosgene: Phosgene là hợp chất hóa học với công thức COCl 2. Chất khí không màu này được sử dụng như một vũ khí hóa học nguy hiểm bắt đầu từ Chiến tranh thế giới 1. Khí Phosgene chính là “thủ phạm” giết người khủng nhất thời bấy giờ. Theo một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ năm 1987, có đến 85% của tất cả các trường hợp tử vong trong Đại chiến là do Phosgene. Trong khi đó, Hiệp hội các nhà khoa học lại đưa ra con số 80%. Dù với con số nào đi nữa thì nó cũng đã cướp đi 8,5 triệu sinh mạng con người trong thời chiến. Ảnh: Công thức của Phosgene.
Phosgen không tồn tại trong tự nhiên mà là một sản phẩm nhân tạo của con người. Phosgene được tổng hợp bởi nhà hóa học người Anh John Davy (1790-1868) vào năm 1812 từ CO và Clo. Nó được ứng dụng trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp và thuốc trừ sâu, ước tính cả thế giới đạt sản lượng Phosgene là 2,74 triệu tấn vào năm 1989. Ảnh: Poster của Mỹ về Phosgen trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Phosgene tồn tại dưới dạng lỏng và khí. Nếu được thả ra ở dạng lỏng, nó sẽ nhanh chóng biến thành hơi ga nằm sát mặt đất và lan truyền nhanh chóng. Nó không màu hoặc có màu trắng, vàng nhạt. Mùi vị dễ chịu như cỏ mới cắt hoặc có mùi rất hăng tùy theo nồng độ. Ảnh: Quân Đức tung ra khí Phosgen.
Các triệu chứng: Khi mới tiếp xúc, nạn nhân có triệu chứng ho, cảm giác cháy trong cổ họng và chảy nước mắt, xót mắt, thị lực mờ đi, thở dốc và ói mửa, sau đó khó thở, ho ra chất dịch màu hồng, huyết áp thấp, suy tim. Ảnh: Minh chứng cho sự nguy hiểm của Phosgene, ảnh chụp tại chiến trường Pháp năm 1918.
7. Khí Clo: Clo nguyên tố Halogen (sinh ra muối). Khí Clo là một trong những chất khí được ứng dụng nhiều nhất trong đời sống và có lẽ ai trong chúng ta cũng biết. Thế nhưng nó cũng là một vũ khí hóa học nguy hiểm được sử dụng ngay cả trong mùa đông lạnh giá bởi tính sát thương kinh khủng của nó. Ảnh: Diễn tập chống khí Clo. Clo đã được sử dụng lần đầu tiên như một vũ khí hóa học bởi quân Đức tại trận thứ hai ở Ypres ngày 22/4/1915 trong Chiến tranh thế giới 2. Người Đức đã triển khai hàng ngàn bình khí clo và đã tiêu diệt toàn bộ 2 sư đoàn của Pháp và Algeria. Khi tiếp xúc với Clo, nó gây đau nhói phía sau của cổ họng và ngực. Clo có thể phản ứng với nước trong niêm mạc của phổi để tạo thành axit clohydric - một chất kích thích có thể làm chết người. Nạn nhân cảm giác như mình đang bị thiêu cháy. Ảnh: Nạn nhân khí Clo.
Clo nhanh chóng được thay thế bằng những vũ khí giết người khủng khiếp hơn như Phosgene và khí mù tạt, tuy nhiên nó vẫn là một loại vũ khí hóa học được tổng hợp và sản xuất dễ dàng. Ngày nay, các vụ khủng bố tại Iraq, các phần tử vẫn thường sử dụng khí Clo như một vũ khí hóa học dưới dạng bom Clo. Ảnh: Vụ nổ do bom mang Clo tại Iraq. Triệu chứng: Nhìn mờ, da phồng rộp, cháy mắt, cổ họng rát, ho, tức ngực, khó thở, phù phổi, buồn nôn, nôn mửa, chảy nước mắt, thở khò khè. Ảnh: Chiến trường hoang tàn nơi quân Đức sử dụng khí clo trong Chiến tranh thế giới 1.
8. Ricin: Ricin là một chất độc hại, một lectin tự nhiên có trong hạt giống của cây thầu dầu. Một liều lượng bằng hạt muối ăn có thể giết chết được một người. Liều gây chết trung bình của Ricin là 22 microgram cho mỗi kilogram ở người nếu tiếp xúc (tiêm hoặc hít phải). Khi nhiễm phải, Ricin ngăn chặn và ức chế quá trình tổng hợp protein trong cơ thể bằng cách ngăn quá trình lắp ráp các axit amin thành các chuỗi protein. Ricin cũng dễ bị tiêu hóa bởi peptidase. Vì vậy, quá trình gây chết của Ricin không nhanh bằng cách chất độc khác. Ảnh: Cây Thầu dầu. Người Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu sản xuất Ricin trong Chiến tranh thế giới 1, nó được xem xét để sử dụng như một lớp phủ cho vỏ đạn. Trong Chiến tranh thế giới 2, Ricin được Mỹ và Canada sử dụng dưới dạng bom chùm. Tuy nhiên, Mỹ đã nhận ra rằng Ricin không hiệu quả bằng Phosgene, nó vẫn được tiếp tục sản xuất sau Chiến tranh thế giới 2 và số lượng giảm dần khi Mỹ tập trung sản xuất vũ khí hóa học hiệu quả hơn là Sarin. Ảnh: Quả cây thầu dầu chứa Ricin.
Đôi khi Ricin vẫn được sử dụng như một vũ khí ám sát hiệu quả. Nổi tiếng nhất vẫn là vụ ám sát Georgi Markov vào năm 1978 trên đường phố London. Ông ta đã bị giết bởi viên đạn nhỏ mang Ricin bắn vào chân từ 1 cái ô. Ảnh: Goergi Markov.
Triệu chứng: Nếu hít phải Ricin, nạn nhân dễ bị suy hô hấp, sốt, ho, buồn nôn, đau thắt ngực, thở nặng, huyết áp thấp và suy hô hấp. Nếu ăn phải, nạn nhân sẽ bị nôn mửa, tiêu chảy ra máu, mất nước nghiêm trọng, huyết áp thấp, động kinh, suy cơ quan, gặp vấn đề về hệ thống thần kinh trung ương. Ảnh: Viên đạn Ricin đã giết chết Georgi Markov.
9. Khí mù tạt: Khí mù tạt hay Lưu huỳnh mustards là một chất độc tế bào, tác nhân làm phồng da, hình thành mụn nước trên da khi tiếp xúc. Mustards lưu huỳnh nguyên chất là chất lỏng nhớt không màu, ở nhiệt độ 25-28 độ C. Trong chiến tranh, nó có màu nâu vàng và mùi giống như cây mù tạt (cây cải), tỏi hoặc cải ngựa. Ảnh: Người lính mang mặt nạ chống khí mù tạt.
Khí mù tạt đã được các nhà khoa học Lommel và Steinkopf phát triển một phương pháp để sản xuất với quy mô lớn sử dụng cho quân đội Đức vào năm 1916. Đây là một vũ khí nhằm vô hiệu hóa binh lính trong các chiến hào. Mustard có thể được triển khai trên chiến trường thông qua phương pháp phun từ máy bay hay thả bom hoặc đạn pháo. Ảnh: Bỏng bởi khí mù tạt. Triệu chứng: Kích ứng da, kích ứng mắt, đau mắt, sưng mắt, chảy nước mắt, nhạy cảm ánh sáng, mù tạm thời, chảy nước mũi, hắt hơi, khàn tiếng, chảy máu mũi, đau xoang, khó thở, ho, đau bụng, tiêu chảy, sốt, buồn nôn, nôn mửa, giảm sự hình thành của các tế bào máu. Ảnh: Những người lính bị thương bởi khí mù tạt. Những người lính trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bị mù bởi khí mù tạt.
Thùng chứa khí mù tạt.
10. BZ: BZ hay 3 Quinuclidinyl benzilate (QNB, BZ, EA-2277), tên IUPAC 1-azabicyclo [2.2.2] oct-3-yl 2-hydroxy-2 ,2-diphenylacetate, là một vũ khí hóa học được phát triển bởi NATO. Hoạt động như một chất ức chế cạnh tranh của acetylcholin ở sau khớp thần kinh và sau khớp thần kinh, các màng lưới trong cơ trơn, các tuyến ngoại tiết, và não gây nên các hiệu ứng sững sờ, bối rối, ảo giác và gây nên các hành vi không tự chủ. Ảnh: Công thức lập thể của BZ.
BZ được phát minh bởi Hoffman-LaRoche vào năm 1951. Mỹ bắt đầu quan tâm đến việc sử dụng nó như một vũ khí hóa học và sản xuất trên quy mô lớn vào năm 1959. Triệu chứng: Giãn đồng tử, mờ mắt, khô miệng, da. Ban đầu nhịp tim nhanh chóng giảm hoặc chậm theo thời gian, da mất nước nghiêm trọng. Rối loạn ở mức độ của ý thức; nhận thức sai lầm và khó khăn trong việc tự chủ (ảo tưởng, ảo giác ), khả năng tập trung yếu , dễ bị phân trí, loạn trí. Ảnh: Sản xuất bom BZ.
6. Phosgene: Phosgene là hợp chất hóa học với công thức COCl 2. Chất khí không màu này được sử dụng như một vũ khí hóa học nguy hiểm bắt đầu từ Chiến tranh thế giới 1. Khí Phosgene chính là “thủ phạm” giết người khủng nhất thời bấy giờ. Theo một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ năm 1987, có đến 85% của tất cả các trường hợp tử vong trong Đại chiến là do Phosgene. Trong khi đó, Hiệp hội các nhà khoa học lại đưa ra con số 80%. Dù với con số nào đi nữa thì nó cũng đã cướp đi 8,5 triệu sinh mạng con người trong thời chiến. Ảnh: Công thức của Phosgene.
Phosgen không tồn tại trong tự nhiên mà là một sản phẩm nhân tạo của con người. Phosgene được tổng hợp bởi nhà hóa học người Anh John Davy (1790-1868) vào năm 1812 từ CO và Clo. Nó được ứng dụng trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp và thuốc trừ sâu, ước tính cả thế giới đạt sản lượng Phosgene là 2,74 triệu tấn vào năm 1989. Ảnh: Poster của Mỹ về Phosgen trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Phosgene tồn tại dưới dạng lỏng và khí. Nếu được thả ra ở dạng lỏng, nó sẽ nhanh chóng biến thành hơi ga nằm sát mặt đất và lan truyền nhanh chóng. Nó không màu hoặc có màu trắng, vàng nhạt. Mùi vị dễ chịu như cỏ mới cắt hoặc có mùi rất hăng tùy theo nồng độ. Ảnh: Quân Đức tung ra khí Phosgen.
Các triệu chứng: Khi mới tiếp xúc, nạn nhân có triệu chứng ho, cảm giác cháy trong cổ họng và chảy nước mắt, xót mắt, thị lực mờ đi, thở dốc và ói mửa, sau đó khó thở, ho ra chất dịch màu hồng, huyết áp thấp, suy tim. Ảnh: Minh chứng cho sự nguy hiểm của Phosgene, ảnh chụp tại chiến trường Pháp năm 1918.
7. Khí Clo: Clo nguyên tố Halogen (sinh ra muối). Khí Clo là một trong những chất khí được ứng dụng nhiều nhất trong đời sống và có lẽ ai trong chúng ta cũng biết. Thế nhưng nó cũng là một vũ khí hóa học nguy hiểm được sử dụng ngay cả trong mùa đông lạnh giá bởi tính sát thương kinh khủng của nó. Ảnh: Diễn tập chống khí Clo.
Clo đã được sử dụng lần đầu tiên như một vũ khí hóa học bởi quân Đức tại trận thứ hai ở Ypres ngày 22/4/1915 trong Chiến tranh thế giới 2. Người Đức đã triển khai hàng ngàn bình khí clo và đã tiêu diệt toàn bộ 2 sư đoàn của Pháp và Algeria. Khi tiếp xúc với Clo, nó gây đau nhói phía sau của cổ họng và ngực. Clo có thể phản ứng với nước trong niêm mạc của phổi để tạo thành axit clohydric - một chất kích thích có thể làm chết người. Nạn nhân cảm giác như mình đang bị thiêu cháy. Ảnh: Nạn nhân khí Clo.
Clo nhanh chóng được thay thế bằng những vũ khí giết người khủng khiếp hơn như Phosgene và khí mù tạt, tuy nhiên nó vẫn là một loại vũ khí hóa học được tổng hợp và sản xuất dễ dàng. Ngày nay, các vụ khủng bố tại Iraq, các phần tử vẫn thường sử dụng khí Clo như một vũ khí hóa học dưới dạng bom Clo. Ảnh: Vụ nổ do bom mang Clo tại Iraq.
Triệu chứng: Nhìn mờ, da phồng rộp, cháy mắt, cổ họng rát, ho, tức ngực, khó thở, phù phổi, buồn nôn, nôn mửa, chảy nước mắt, thở khò khè. Ảnh: Chiến trường hoang tàn nơi quân Đức sử dụng khí clo trong Chiến tranh thế giới 1.
8. Ricin: Ricin là một chất độc hại, một lectin tự nhiên có trong hạt giống của cây thầu dầu. Một liều lượng bằng hạt muối ăn có thể giết chết được một người. Liều gây chết trung bình của Ricin là 22 microgram cho mỗi kilogram ở người nếu tiếp xúc (tiêm hoặc hít phải). Khi nhiễm phải, Ricin ngăn chặn và ức chế quá trình tổng hợp protein trong cơ thể bằng cách ngăn quá trình lắp ráp các axit amin thành các chuỗi protein. Ricin cũng dễ bị tiêu hóa bởi peptidase. Vì vậy, quá trình gây chết của Ricin không nhanh bằng cách chất độc khác. Ảnh: Cây Thầu dầu.
Người Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu sản xuất Ricin trong Chiến tranh thế giới 1, nó được xem xét để sử dụng như một lớp phủ cho vỏ đạn. Trong Chiến tranh thế giới 2, Ricin được Mỹ và Canada sử dụng dưới dạng bom chùm. Tuy nhiên, Mỹ đã nhận ra rằng Ricin không hiệu quả bằng Phosgene, nó vẫn được tiếp tục sản xuất sau Chiến tranh thế giới 2 và số lượng giảm dần khi Mỹ tập trung sản xuất vũ khí hóa học hiệu quả hơn là Sarin. Ảnh: Quả cây thầu dầu chứa Ricin.
Đôi khi Ricin vẫn được sử dụng như một vũ khí ám sát hiệu quả. Nổi tiếng nhất vẫn là vụ ám sát Georgi Markov vào năm 1978 trên đường phố London. Ông ta đã bị giết bởi viên đạn nhỏ mang Ricin bắn vào chân từ 1 cái ô. Ảnh: Goergi Markov.
Triệu chứng: Nếu hít phải Ricin, nạn nhân dễ bị suy hô hấp, sốt, ho, buồn nôn, đau thắt ngực, thở nặng, huyết áp thấp và suy hô hấp. Nếu ăn phải, nạn nhân sẽ bị nôn mửa, tiêu chảy ra máu, mất nước nghiêm trọng, huyết áp thấp, động kinh, suy cơ quan, gặp vấn đề về hệ thống thần kinh trung ương. Ảnh: Viên đạn Ricin đã giết chết Georgi Markov.
9. Khí mù tạt: Khí mù tạt hay Lưu huỳnh mustards là một chất độc tế bào, tác nhân làm phồng da, hình thành mụn nước trên da khi tiếp xúc. Mustards lưu huỳnh nguyên chất là chất lỏng nhớt không màu, ở nhiệt độ 25-28 độ C. Trong chiến tranh, nó có màu nâu vàng và mùi giống như cây mù tạt (cây cải), tỏi hoặc cải ngựa. Ảnh: Người lính mang mặt nạ chống khí mù tạt.
Khí mù tạt đã được các nhà khoa học Lommel và Steinkopf phát triển một phương pháp để sản xuất với quy mô lớn sử dụng cho quân đội Đức vào năm 1916. Đây là một vũ khí nhằm vô hiệu hóa binh lính trong các chiến hào. Mustard có thể được triển khai trên chiến trường thông qua phương pháp phun từ máy bay hay thả bom hoặc đạn pháo. Ảnh: Bỏng bởi khí mù tạt.
Triệu chứng: Kích ứng da, kích ứng mắt, đau mắt, sưng mắt, chảy nước mắt, nhạy cảm ánh sáng, mù tạm thời, chảy nước mũi, hắt hơi, khàn tiếng, chảy máu mũi, đau xoang, khó thở, ho, đau bụng, tiêu chảy, sốt, buồn nôn, nôn mửa, giảm sự hình thành của các tế bào máu. Ảnh: Những người lính bị thương bởi khí mù tạt.
Những người lính trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bị mù bởi khí mù tạt.
Thùng chứa khí mù tạt.
10. BZ: BZ hay 3 Quinuclidinyl benzilate (QNB, BZ, EA-2277), tên IUPAC 1-azabicyclo [2.2.2] oct-3-yl 2-hydroxy-2 ,2-diphenylacetate, là một vũ khí hóa học được phát triển bởi NATO. Hoạt động như một chất ức chế cạnh tranh của acetylcholin ở sau khớp thần kinh và sau khớp thần kinh, các màng lưới trong cơ trơn, các tuyến ngoại tiết, và não gây nên các hiệu ứng sững sờ, bối rối, ảo giác và gây nên các hành vi không tự chủ. Ảnh: Công thức lập thể của BZ.
BZ được phát minh bởi Hoffman-LaRoche vào năm 1951. Mỹ bắt đầu quan tâm đến việc sử dụng nó như một vũ khí hóa học và sản xuất trên quy mô lớn vào năm 1959. Triệu chứng: Giãn đồng tử, mờ mắt, khô miệng, da. Ban đầu nhịp tim nhanh chóng giảm hoặc chậm theo thời gian, da mất nước nghiêm trọng. Rối loạn ở mức độ của ý thức; nhận thức sai lầm và khó khăn trong việc tự chủ (ảo tưởng, ảo giác ), khả năng tập trung yếu , dễ bị phân trí, loạn trí. Ảnh: Sản xuất bom BZ.