Theo dòng sử Việt từ thời lập nước đầu tiên cho đến nay, một số vùng đất đã được chọn để làm kinh đô qua các thời kỳ, có thể kể tới như:
Thời An Dương Vương kinh đô ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội).
Thời Hai Bà Trưng kinh đô ở Mê Linh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Thời Ngô Quyền kinh đô lại được chọn là Cổ Loa.
Thời Đinh kinh đô đóng ở Hoa Lư (nay thuộc Trường Yên, Ninh Bình).
Các nhà Lý, Trần, hậu Lê, Mạc đều chọn Thăng Long (Hà nội ngày nay) để đóng đô.
Nhà Hồ đóng đô ở Tây Đô (nay là Thanh Hóa).
Các đời chúa Nguyễn nhiều lần dời dinh, cuối cùng chọn Phú Xuân (Huế) làm chính dinh.
Nhà Tây Sơn chọn Quy Nhơn, rồi đến Phú Xuân.
Nhà Nguyễn chọn Huế làm kinh đô.
Nhưng bên cạnh những vùng đất trên còn phải kể đến Nghệ An, vùng đất suýt chút nữa đã trở thành kinh đô của nước ta vào thời nhà Tây Sơn, dưới sự trị vì của vua Quang Trung.
Quyết tâm xây kinh đô mới ở Nghệ An
Từ năm 1788, Nguyễn Huệ đã muốn xây một đô thành mới ở Phù Thạch, Nghệ An thay cho kinh đô Phú Xuân. Ông chọn La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm việc này.
Đô thành mới được đặt tên là “Phượng Hoàng Trung Đô” – “phượng hoàng” là tên một loài chim đã gắn với văn hóa truyền thống, còn “trung đô” là bởi nơi đây nằm giữa hai thành chính quan trọng của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ: Thăng Long và Phú Xuân. Phượng Hoàng Trung Đô cách Thăng Long 300 km, cách Phú Xuân 300 km.
Nguyễn Huệ đã gửi chiếu thư cho Nguyễn Thiếp ngày 1 tháng 6 năm Mậu Thân (1788) với nội dung như sau:
Chiếu truyền cho La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp được biết: Ngày trước ủy thác cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đây thấy chưa được việc gì? Nay ta hãy hồi giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy ban chiếu xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông Trấn thủ Thận tính toán và làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch.
Khi biết Nguyễn Huệ muốn xây kinh đô mới ở Nghệ An trong thời gian ngắn, có lẽ lo lắng việc này sẽ làm khổ dân địa phương, nên Nguyễn Thiếp chưa thực thi. Trấn thủ Nguyễn Thận trình tấu thư cho Nguyễn Huệ báo La Sơn Phu Tử chưa chịu xem đất nên công trình chưa thể khởi công được.
Nguyễn Huệ gửi chiếu thư cho Nguyễn Thiếp trách cứ việc để chậm trễ, Nguyễn Thiếp gửi thư đến Phú Xuân khuyên Nguyễn Huệ không nên chọn vùng Phù Thạch, vì nơi ấy kề núi kề sông, đất chật hẹp, bờ sông lại hay sạt lở, việc đóng đô nơi ấy không thuận lợi.
Nguyễn Huệ trả lời trong tờ chiếu vào ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, tức năm 1788, đại ý rằng tiếp nhận lời khuyên của Nguyễn Thiếp, nhưng vẫn muốn chọn đóng ở Nghệ An:
Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung trông mong? … Nhớ buổi hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy.
Nguyễn Huệ cũng giải thích thêm rằng:
Nay kinh đô ở Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế khó khăn. Theo đình thần nghị rằng chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về.
Như vậy quyết định này được đưa ra chỉ vài tháng trước khi Nguyễn Huệ chính thức lên ngôi vua. Cũng trong tờ chiếu đó, Nguyễn Huệ còn ghi nhận ở Nghệ An “hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy!”.
Phong thủy núi Dũng Quyết, Nghệ An – Nơi được chọn xây dựng kinh thành mới
Truyền thuyết kể rằng, thấy Nguyễn Huệ vẫn quyết xây kinh đô mới, Nguyễn Thiếp liền đi Nghệ An một chuyến. Vốn giỏi về dịch lý và phong thủy, ông đã xem kỹ hai cuốn sách của Cao Biền do Hoàng Phúc mang sang nhằm triệt phá phong thủy vùng Giao Chỉ (sau đó Hoàng Phúc bị nghĩa quân Lam Sơn bắt được và thu giữ hai cuốn sách này). Hai cuốn cách này có nói đến vùng đất quý ở núi Dũng Quyết, nên Nguyễn Thiếp quyết đến nơi đây một chuyến.
Đến khu vực núi Dũng Quyết, Nguyễn Thiếp tìm thấy Tổ sơn xuất phát từ khe Bò Đái nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh, khí mạch chạy xuống núi Dũng Quyết, bao bọc xung quanh rồi vòng lại Tổ sơn. Núi Dũng Quyết thành nơi tụ khí, có đủ âm dương rất đắc địa.
Từ phía sông Lam quan sát sẽ thấy bên trái có Thanh Long, chính là dòng sông Lam; bên phải có Bạch Hổ chính là vùng núi Hà Tĩnh, cùng đưa khí tụ về núi Dũng Quyết. Còn ở mặt trước phía Đông núi Dũng Quyết là Chu Tước và phía sau là Huyền Vũ làm hậu phương. Nhận thấy nơi đây đắc địa hiếm có, Nguyễn Thiếp quyết định chọn làm nơi để xây “Phượng Hoàng Trung Đô”.
Ông chọn vị trí xây dựng ở chỗ có ngọn núi nằm ngay giữa núi Phượng Hoàng và núi Kỳ Lân (còn gọi là núi Cánh Phượng và núi Con Mèo) vì nhận thấy nơi đây có đủ Long – Ly – Quy – Phượng. Ngày nay, địa điểm này thuộc xã Yên Trường, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.
Nguyễn Thiếp báo cho Nguyễn Huệ về vùng đất mới tìm được ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đồng ý nghe theo lời khuyên này.
Hiện nay dưới chân núi Dũng Quyết vẫn còn dấu tích của Phương Hoàng Trung Đô rộng khoảng 10 mẫu, với hai vòng thành là thành Nội và thành Ngoại hình thang. Thành ngoại cao 3 đến 4m, chu vi 2.820 m, diện tích 22 ha. Phía ngoài có hào rộng 3m, sâu 3m; thành nội xây bằng gạch vồ và đá ong, cao 2m, chu vi gần 1.680m. Ở giữa có tòa lầu 3 tầng nối với điện Thái Hòa. Xung quanh thành có các đồn.
Vì sao “Phượng Hoàng Trung Đô” cuối cùng không được chọn?
Theo các nguồn sử liệu thì Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng trong thời gian 4 năm, từ năm 1788 đến 1792, trùng với thời điểm Nghệ An bị mất mùa, dân tình đói kém. Tuy nhiên Nguyễn Huệ vẫn ban chiếu yêu cầu xây dựng: “Những công việc to, tạm thời hoãn lại. Nhưng Sở Ngũ Hành thì không thể lưỡng lự được, cần phải hoàn thành sớm”. Theo sử liệu nước ngoài thì người dân đói khổ nên phản đối, mạnh ai nấy trốn khiến việc xây dựng gặp khó khăn, việc cưỡng ép xây dựng trong thời điểm mất mùa khiến người dân oán thán.
Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung cũng từng đi thị sát việc xây dựng kinh đô mới vào các năm 1789, 1791, 1792. Thế nhưng khi việc xây dựng “Phượng Hoàng Trung Đô” đang gấp rút thì vua Quang Trung bị bệnh nặng rồi mất. Về nguyên nhân vua Quang Trung bị bệnh thì cũng có những ghi chép khác nhau. Cũng có thuyết cho rằng, bởi vì vua Quang Trung khi giành được Phú Xuân đã phá lăng tẩm 8 đời chúa Nguyễn, ném thi thể xuống sông, mạo phạm những vị chúa đã có công mở mang bờ cõi, nên sau này mới sinh bệnh (Đây cũng là nguyên nhân vua Gia Long đối xử tàn tệ với hài cốt của vua Quang Trung sau này).
Sách “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện” ghi rằng:
Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm đến lăng tẩm của Liệt Thánh. Một ngày kia đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc, áo trắng, cầm gậy sắt từ không trung đi đến, mắng rằng: Ông cha mày đều sinh ở đất vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm. Nói vừa dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bệnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An.
Sách “Ngụy Tây liệt truyện” chép:
Từ đó bệnh của Vua không chữa khỏi được và trở nên nguy kịch. Trước khi mất vua Quang Trung căn dặn các cận thần rằng: “Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai có cả cõi Nam này. Nay đau ốm tất không khỏi được. Thái tử (Quang Toản) tư chất hơn cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Phúc Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lảo thảo thôi. Lũ người nên hợp sức mà giúp thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân.
Thế nhưng khi vua Quang Trung mất, việc xây dựng kinh đô mới bị gác lại, Quang Toản lên ngôi đã không thực hiện việc dời đô theo ý vua cha.
Năm 1801, Nguyễn Phúc Ánh đưa quân tiến đánh Phú Xuân, vua Quang Toản chạy ra Thăng Long. Lúc này lầu rồng 3 tầng ngay chính giữa “Phượng Hoàng Trung Đô” ở Nghệ An đột nhiên sụp đổ.
Sách Hoang Lê nhất thống chí mô tả:
Tháng 6 mùa hè năm ấy (tức 1801), thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin là Lầu Rồng ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp, những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành.
Quả nhiên sang năm (1802) thì nhà Tây Sơn mất.
Ngày nay, qua thời gian và sự tàn phá trong loạn lạc, “Phượng Hoàng Trung Đô” chỉ còn lại những dấu tích mờ nhạt ở phía Nam của thành phố Vinh.