Tọa lạc tại số 380 đường Trần Hưng Đạo, quận 5,TP HCM, đình Minh Hương Gia Thạnh là một công trình kiến trúc cổ mang những nét đặc trưng, rất độc đáo của vùng đất Chợ Lớn xưa.Đình được xây dựng năm 1797, là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên "Gia Thạnh đường" nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh.Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Công trình được trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính điện.Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành.Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19.Chính điện của đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng - hạc, mai - điểu, liên - áp, giỏ cua, giỏ trái cây ...Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa ...Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần - Ngũ cốc tôn thần- Đông trù tư mệnh - Bốn cảnh thành hoàng.Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng của Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, cùng với Lê Quang Định hợp thành "Gia Định tam gia", một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học.Khám bên trái thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh. Các khu vực thờ tự khác của đình là hậu điện, nơi thờ các bậc tiền hiền, hương chức, viên chức có công và phu nhân; miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương; các khám thờ Phúc đức chính thần và Bạch Mã Thái giám...Đình có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối. Đặc biệt nhất là các đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng... với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842.Trong đình còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hai quả chuông đồng, một quả đúc năm 1823, một quả đúc năm 1849, bộ ghế chạm rồng, phượng, bộ thập bát binh khí...Trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc ... do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901.Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19.Năm 1993, đình Minh Hương Gia Thạnh đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia của Việt Nam.
Tọa lạc tại số 380 đường Trần Hưng Đạo, quận 5,TP HCM, đình Minh Hương Gia Thạnh là một công trình kiến trúc cổ mang những nét đặc trưng, rất độc đáo của vùng đất Chợ Lớn xưa.
Đình được xây dựng năm 1797, là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên "Gia Thạnh đường" nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh.
Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Công trình được trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính điện.
Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành.
Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19.
Chính điện của đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng - hạc, mai - điểu, liên - áp, giỏ cua, giỏ trái cây ...
Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa ...
Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần - Ngũ cốc tôn thần- Đông trù tư mệnh - Bốn cảnh thành hoàng.
Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng của Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, cùng với Lê Quang Định hợp thành "Gia Định tam gia", một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học.
Khám bên trái thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh. Các khu vực thờ tự khác của đình là hậu điện, nơi thờ các bậc tiền hiền, hương chức, viên chức có công và phu nhân; miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương; các khám thờ Phúc đức chính thần và Bạch Mã Thái giám...
Đình có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối. Đặc biệt nhất là các đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng... với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842.
Trong đình còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hai quả chuông đồng, một quả đúc năm 1823, một quả đúc năm 1849, bộ ghế chạm rồng, phượng, bộ thập bát binh khí...
Trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc ... do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901.
Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19.
Năm 1993, đình Minh Hương Gia Thạnh đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia của Việt Nam.