Giải mã “kỳ tích” có một không hai trong chiến dịch Hồ Chí Minh

(Kiến Thức) - Vào tháng 4/1975, thay vì mất 3 tháng, những đoàn quân Việt Nam chỉ mất 10 ngày để đi hết con đường Trường Sơn huyền thoại và làm nên kỳ tích trong chiến dịch Hồ Chí Minh. 

Bước chân thần tốc
Bước vào mùa xuân 1975, quân đoàn 1 – quân đoàn đầu tiên của Việt Nam vẫn còn đóng ở miền Bắc. Nhằm mục đích tạo thế mạnh áp đảo đối với quân địch, Quân ủy trung ương quyết định điều động quân đoàn 1 vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 18/3/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm quân đoàn 1 tại trụ sở đóng tại Tam Điệp – Ninh Bình. Tại đây, Đại tướng đã ra lệnh cho quân đoàn 1 sẵn sàng lên đường hành quân vào miền Nam tham gia chiến đấu trong trận đánh cuối cùng. Ngoại trừ sư đoàn 308 ở lại miền Bắc làm dự bị chiến lược, đề phòng Mỹ phản ứng quân sự, còn lại 2 sư đoàn bộ binh (320B và 312) và toàn bộ các lực lượng binh khí kỹ thuật lên đường. Đội hình hành quân của quân đoàn 1 đi theo đường Trường Sơn từ miền Bắc vào thẳng khu vực Tây Bắc Sài Gòn.
Trước đây, mỗi đoàn quân hành quân trên đường Trường Sơn phải mất từ 3 đến 6 tháng mới vào đến Đông Nam Bộ. Nhưng trong chiến dịch cuối cùng này, các đoàn quân đi trong đội hình lớn, với xe tăng, pháo lớn cồng kềnh nhưng chỉ trong 10 đến 20 ngày đã vào đến chiến trường.
Giai ma “ky tich” co mot khong hai trong chien dich Ho Chi Minh
  Đường Trường Sơn với những đoàn xe vận tải đổ về Nam 1975. Ảnh: Internet.

Theo ghi chép của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên trong cuốn Đường xuyên Trường Sơn, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng vận tải của Đoàn 559 đã sử dụng một lực lượng lớn ô tô vận tải để chuyển quân đoàn 1 từ Bắc vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Tướng Nguyên viết: “Ngày 19 tháng 4, toàn bộ đội hình Quân đoàn 1 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đã tập kết đủ ở Đồng Xoài, Lộc Ninh. Trong vòng 20 ngày, một sư đoàn huy động hơn 1.000 đầu xe, cơ động gọn đội hình quân đoàn binh chủng hợp thành với trang bị khí tài mạnh, vượt 1.200 cây số đường Trường Sơn, tới đích sớm hơn 6 ngày so với thời gian quy định. Đây thực sự là một chiến công, một kỳ tích của bộ đội vận tải Trường Sơn”.
Đi cháy bánh xe, long bánh pháo
Trong cuộc hành quân này, sư đoàn 312 là đơn vị đi xa nhất. Lúc nhận lệnh, toàn sư đoàn đang đóng ở Hà Trung – Thạch Thành – Thanh Hóa. Tuy nhiên, với khí thế thần tốc, chỉ mất 10 ngày, cả sư đoàn đã vào đến vị trí tập kết ở Đồng Xoài, vượt gần 2.000 km. Tuy lúc này đi trên Trường Sơn không còn bị bom pháo của địch cản đường nhưng hành quân trên con đường này cũng không kém phần vất cả.
Thiếu tướng Nguyễn Chuông (sư đoàn trưởng sư đoàn 312 năm 1975) trong cuốn Đường binh nghiệp của tôi kể: “ Đã cuối mùa khô mà thời tiết vẫn như lửa đốt. Chưa bao giờ chúng tôi lại gặp cảnh bụi đường khủng khiếp như trên đường Trường Sơn. Có đoạn xe chạy như chui vào ống khói khổng lồ. Xe chạy ngày, xe trước xe sau chỉ cách nhau vài mét cũng không nhìn thấy nhau, cứ phải bấm còi liên tục, phải bật cả đèn pha để khỏi húc nhau. Bộ đội mỗi người một chiếc khăn mặt, che kín mũi, kín miệng”.
Vào ngày thứ 5 của cuộc hành quân, Thiếu tướng Nguyễn Chuông nhận được bức điện “Thần tốc, thần tốc hơn nữa…” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ đây, sư đoàn 312 hành quân không nghỉ bất kể ngày đêm. Việc nấu ăn được thực hiện trong lúc chờ xe nguội máy, chiến sĩ ngủ ngay trên thùng xe. Đoàn quân miệt mài tiến tới phía trước đến nỗi cháy bánh xe long bánh pháo. Trước đây, đơn vị chỉ đi một cung có 80 đến 100 km. Sau nâng dần lên 100 đến 150 km. Đến lúc cao điểm, có lúc đã đi được 250 đến 300 km một ngày. Đúng ngày 12/4, toàn sư đoàn đã đến địa điểm tập kết tại Đồng Xoài. Sư đoàn xuất phát từ Thạch Thành – Thanh Hóa ngày 2/4, tính ra chỉ mất 10 ngày đã vào đến nơi với toàn bộ chiến sĩ mạnh khỏe, trang bị vũ khí đầy đủ. Thiệt hại chỉ có cháy 1 bánh xe và long 1 bánh pháo do đi quá nhanh.
Ngay chính Thiếu tướng Nguyễn Chuông, một người trưởng thành từ chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp, đã tham gia không biết bao nhiêu cuộc hành quân, nhưng cũng bất ngờ với kỳ tích mà đơn vị mình đã làm nên: “Tôi rất vui mừng: sư đoàn tôi từ Thanh Hóa hành quân đến Đồng Xoài miền Đông Nam Bộ, vượt gần 2.000 km chỉ mất 10 ngày. Là cán bộ chỉ huy sư đoàn, tôi ở sư đoàn từ khi thành lập, rất nhiều lần hành quân đi chiến dịch chưa có cuộc hành quân nào đường dài 2.000 cây số đi qua nhiều tỉnh, nhiều vùng, địa hình, thời tiết khác nhau, đi từ miền Bắc đến tận chiến trường Đông Nam Bộ, toàn sư đoàn tới vị trí chỉ mất 10 ngày, vượt quy định của trên 12 ngày. Đi nhanh như vậy, đến địa điểm tập kết gọn và an toàn, bộ đội phấn khởi, đầy khí thế. Đúng là cuộc hành quân thần tốc, cuộc hành quân lịch sử”.
Sự di chuyển thần tốc của sư đoàn 312 và Quân đoàn 1 nói chung đã góp phần tạo ra thế mạnh áp đảo khiến binh lính chính quyền Sài Gòn đã rệu rã, lại càng mất tinh thần và kết quả là mau chóng tan rã hoàn toàn vào ngày 30/4/1975.

Đồ nghề của phóng viên Giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ

(Kiến Thức) - Cùng khám phá đồ nghề tác nghiệp của đội ngũ phóng viên lực lượng Giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ qua loạt hiện vật quý giá của Bảo tàng TP HCM.

Do nghe cua phong vien Giai phong trong khang chien chong My
 Máy ảnh hiệu Zeiss Ikon do phái đoàn đại biểu miền Nam tặng bác Hồ khi ra Chiến khu Việt Bắc dự Đại hội Đảng năm 1951, Bác giao lại cho nhiếp ảnh gia Đinh Đăng Định sử dụng. Năm 1965, phóng viên ảnh Lâm Tấn Tài của TTXVN vượt Trường Sơn vào miền Nam chiến đấu đã sử dụng chiếc máy ảnh này để ghi lại những hình ảnh của đồng bào, chiến sĩ trong kháng chiến chống Mỹ.

Vị tướng chiến thắng từ Điện Biên đến Dinh Độc Lập

(Kiến Thức) - Từ Điện Biên đến Sài Gòn, cánh quân do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy luôn là những người đến đích đầu tiên.

Nhà cầm quân thiên tài
Cuộc kháng chiến trường kì 30 năm của dân tộc ta đã sản sinh ra một thế hệ tướng lĩnh tài giỏi. Họ là những nhà cầm quân thiên tài nhưng đặc biệt hầu hết không xuất thân từ các trường lớp quân sự. Lúc sinh thời, khi trả lời phỏng vấn của một tờ báo, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đánh giá có 4 vị tướng xuất sắc nhất là: Đầu tiên là tướng Võ Nguyên Giáp, thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn, thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An.Trong đánh giá của tướng Thảo, người xếp vị trí thứ hai sau thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp là Đại tướng Lê Trọng Tấn. Tất nhiên còn nhiều góc nhìn khác có thể sắp xếp những người khác nhưng cách đánh giá của Thượng tướng Thảo về tướng Tấn hoàn toàn có cơ sở.

Bộ sưu tập xe tăng lớn nhất Đông Nam Á của Việt Nam

(Kiến Thức) - Bảo tàng Lực lượng Tăng - Thiết giáp ở Hà Nội được coi là nơi lưu giữ hiện vật xe tăng lớn nhất trong các bảo tàng khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, nhiều chiếc xe tăng ở bảo tàng này đã lập chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

 
Xe tăng T34 - số hiệu 114 là chiếc xe tăng đầu tiên của Liên Xô viện trợ tiếp đất trên lãnh thổ Việt Nam lúc 18h33 ngày 13/7/1960 tại ga Vĩnh Yên.
Xe tăng T34 - số hiệu 114 là chiếc xe tăng đầu tiên của Liên Xô viện trợ tiếp đất trên lãnh thổ Việt Nam lúc 18h33 ngày 13/7/1960 tại ga Vĩnh Yên.
Xe tăng T59 - số hiệu 390 là một hiện vật có giá trị lịch sử đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chiếc xe tăng này thuộc biên chế Đại đội 4, Tiểu đoàn 171, Lữ đoàn xe tăng 203 vào năm 1971. Đến năm 1972, xe được biên chế về Đại đội 4, Tiểu đoàn 512, Lữ đoàn 203 Quân đoàn 2.
 Xe tăng T59 - số hiệu 390 là một hiện vật có giá trị lịch sử đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chiếc xe tăng này thuộc biên chế Đại đội 4, Tiểu đoàn 171, Lữ đoàn xe tăng 203 vào năm 1971. Đến năm 1972, xe được biên chế về Đại đội 4, Tiểu đoàn 512, Lữ đoàn 203 Quân đoàn 2.

Ngày 30/4/1975, xe tăng T59 - số hiệu 390 đã húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, mở đường cho quân ta vào bắt sống Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của chính quyền Sài Gòn. Với sự kiện này, chiếc xe đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của ngày thống nhất đất nước.
Ngày 30/4/1975, xe tăng T59 - số hiệu 390 đã húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, mở đường cho quân ta vào bắt sống Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của chính quyền Sài Gòn. Với sự kiện này, chiếc xe đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của ngày thống nhất đất nước.

Xe tăng T54 số hiệu 960 thuộc biên chế Đại đội 10 - Tiểu đoàn 20 - Đoàn M26 Thiết giáp Miền Đông Nam Bộ. Đây là chiếc xe truyền thống của bộ đội Thiết giáp miền Đông Nam Bộ, đã lập thành tích xuất sắc trong các trận Lộc Ninh (1972), Núi Gió, Bù Bông, Kiến Đức (1973), Bình Long, Phước Long, Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).
Xe tăng T54 số hiệu 960 thuộc biên chế  Đại đội 10 - Tiểu đoàn 20 - Đoàn M26 Thiết giáp Miền Đông Nam Bộ. Đây là chiếc xe truyền thống của bộ đội Thiết giáp miền Đông Nam Bộ, đã lập thành tích xuất sắc trong các trận Lộc Ninh (1972), Núi Gió, Bù Bông, Kiến Đức (1973), Bình Long, Phước Long, Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).

Xe tăng PT76 - số hiệu 555 thuộc biên chế Đại đội 3 - Tiểu đoàn 198 - Trung đoàn 203 là chiếc xe tăng đã lập thành tích xuất sắc trong trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng đầu tiên có xe tăng tham gia tại Tà Mây - Làng Vây (2/1968), sau đó là Chiến dịch Đường 9 Nam Lào (2/1971) và trở thành chiếc xe truyền thống đầu tiên của lực lượng Tăng thiết giáp.
 Xe tăng PT76 - số hiệu 555 thuộc biên chế Đại đội 3 - Tiểu đoàn 198 - Trung đoàn 203 là chiếc xe tăng đã lập thành tích xuất sắc trong trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng đầu tiên có xe tăng tham gia tại Tà Mây - Làng Vây (2/1968), sau đó là Chiến dịch Đường 9 Nam Lào (2/1971) và trở thành chiếc xe truyền thống đầu tiên của lực lượng Tăng thiết giáp.

Xe tăng T54B - số hiệu 980 thuộc biên chế Đại đội 9 - Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 273, là chiếc xe tăng đã bắn sập cổng chỉ huy sở F23 của quân đội Sài Gòn trong trận đánh giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột ngày 11/3/1975.
 Xe tăng T54B - số hiệu 980 thuộc biên chế  Đại đội 9 - Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 273, là chiếc xe tăng đã bắn sập cổng chỉ huy sở F23 của quân đội Sài Gòn trong trận đánh giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột ngày 11/3/1975.

Xe thiết giáp K63 - số hiệu 059 thuộc biên chế Đại đoàn 1, Tiểu đoàn 66 Bộ binh cơ giới, Trung đoàn xe tăng 202. Chiếc xe này đã lập chiến công xuất sắc, bắn cháy 5 xe tăng M41 của địch trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt từ ngày 26-31/1/1973.
 Xe thiết giáp K63 - số hiệu 059 thuộc biên chế  Đại đoàn 1, Tiểu đoàn 66 Bộ binh cơ giới, Trung đoàn xe tăng 202. Chiếc xe này đã lập chiến công xuất sắc, bắn cháy 5 xe tăng M41 của địch trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt từ ngày 26-31/1/1973.

Xe tăng T59 - số hiệu 995, thuộc biên chế Đại đội 1, trung đoàn xe tăng 203. Chiếc xe tăng này đã lập thành tích xuất sắc, bắn cháy hai xe tăng địch trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt từ ngày 26-31/1/1973.
Xe tăng T59 - số hiệu 995, thuộc biên chế Đại đội 1, trung đoàn xe tăng 203. Chiếc xe tăng này đã lập thành tích xuất sắc, bắn cháy hai xe tăng địch trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt từ ngày 26-31/1/1973. 

Xe thiết giáp M113 - số hiệu 033 là chiến lợi phẩm đầu tiên do đại đội 33, đoàn M26 thiết giáp miền Đông Nam Bộ thu được của địch tai Sô Mun (Tây Ninh) năm 1971. Xe đã tham gia chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc trong các trận Sa Mát, Lộc Ninh năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
 Xe thiết giáp M113 - số hiệu 033 là chiến lợi phẩm đầu tiên do đại đội 33, đoàn M26 thiết giáp miền Đông Nam Bộ thu được của địch tai Sô Mun (Tây Ninh) năm 1971. Xe đã tham gia chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc trong các trận Sa Mát, Lộc Ninh năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Xe tăng M41 - số hiệu 021 là chiến lợi phẩm thu được tại Cheo Reo – Phú Bổn. Sau đó xe được biên chế vào Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 273. Trong trận Cầu Bồng ngày 29/4/1975, xe đã bắn hạ 7 xe M113 của địch, góp phần mở đường cho Quân đoàn 3 tiến vào giải phóng Sài Gòn.
 Xe tăng M41 - số hiệu 021 là chiến lợi phẩm thu được tại Cheo Reo – Phú Bổn. Sau đó xe được biên chế vào Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 273. Trong trận Cầu Bồng ngày 29/4/1975, xe đã bắn hạ 7 xe M113 của địch, góp phần mở đường cho Quân đoàn 3 tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Xe tăng M48 - số hiệu 034 là chiến lợi phẩm thu được của địch tại Cheo Reo - Phú Bổn. Xe được biên chế vào Đại đội 9 - Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 273. Xe đã lập chiến công tiêu diệt căn cứ Nhạn Tháp, diệt một trận địa pháo 105mm của địch, bắn chìm một tàu địch trên sông Đà Rằng, góp phần giải phóng thị xã Tuy Hòa vào tháng 3/1975.
 Xe tăng M48 - số hiệu 034 là chiến lợi phẩm thu được của địch tại Cheo Reo - Phú Bổn. Xe được biên chế vào Đại đội 9 - Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 273. Xe đã lập chiến công tiêu diệt căn cứ Nhạn Tháp, diệt một trận địa pháo 105mm của địch, bắn chìm một tàu địch trên sông Đà Rằng, góp phần giải phóng thị xã Tuy Hòa vào tháng 3/1975.

Xe tăng T55 - số hiệu 152 thuộc biên chếĐại đội 1 - Tiểu đoàn 7 - Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp. Chiếc xe này đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
Xe tăng T55 - số hiệu 152 thuộc biên chếĐại đội 1 - Tiểu đoàn 7 - Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp. Chiếc xe này đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Một chiếc xe tăng T54 được dùng làm hiện vật đồng dạng của xe tăng T54 – số hiệu 843, thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 203. Ngày 30/4/1975 xe tăng này đã dẫn đầu đội hình vào Sài gòn và húc vào cổng phụ của Dinh Độc Lập. Hiện vật gốc hiện được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự.
 Một chiếc xe tăng T54 được dùng làm hiện vật đồng dạng của xe tăng T54 – số hiệu 843, thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 203. Ngày 30/4/1975 xe tăng này đã dẫn đầu đội hình vào Sài gòn và húc vào cổng phụ của Dinh Độc Lập. Hiện vật gốc hiện được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự.
Xem video: Lược sử cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Đọc nhiều nhất

Tin mới