Vũ khí thô sơ, ý chí thép – sức mạnh làm nên huyền thoại quân đội Việt Nam

Điều làm nên huyền thoại về Quân đội Nhân dân Việt Nam không chỉ là những chiến thắng lịch sử, mà còn là phẩm chất con người được tôi luyện qua chiến tranh.

Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12 là thời điểm để nhìn lại một hiện tượng lịch sử đặc biệt: Một quân đội ra đời từ nhân dân, lớn lên trong thiếu thốn, chiến đấu bằng vũ khí thô sơ nhưng đã tạo nên những chiến thắng mang tầm vóc thời đại. Trong suốt thế kỷ 20, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở thành biểu tượng của ý chí độc lập, của tinh thần “lấy yếu thắng mạnh”, và của sức mạnh con người vượt lên giới hạn của phương tiện vật chất.

Ngay từ khi thành lập ngày 22/12/1944 với tên gọi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lực lượng vũ trang cách mạng đã mang trong mình đặc điểm rất khác so với các quân đội chính quy trên thế giới: Số lượng ban đầu chỉ vài chục người, vũ khí là súng trường thu được của địch, mã tấu, lựu đạn tự tạo; quân trang thiếu thốn; hậu cần dựa vào sự đùm bọc của nhân dân. Nhưng điều mà lực lượng ấy có được là một ý chí chính trị rõ ràng: Chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì quyền làm chủ của nhân dân, vì những mục tiêu cao cả vượt lên trên lợi ích cá nhân.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, sự chênh lệch về trang bị giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và đối phương là rất lớn. Quân đội Pháp có pháo hạng nặng, xe tăng, máy bay; trong khi bộ đội Việt Nam phần lớn sử dụng vũ khí bộ binh hạng nhẹ tự chế tạo hoặc thu được của địch. Chính trong điều kiện khó khăn ấy, ý chí chiến đấu, kỷ luật, khả năng tổ chức và sáng tạo chiến thuật của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa hiệu quả. Những con đường kéo pháo, hệ thống hầm hào được xây dựng gấp rút bằng sức người, những bữa cơm độn sắn giữa rừng sâu… không chỉ là hình ảnh phản ánh điều kiện vật chất gian khổ mà còn là minh chứng cho sức mạnh tinh thần đã biến cái “không thể” thành hiện thực.

Hình ảnh người chiến sĩ Cảm tử quân ôm bom ba càng đánh xe tăng địch đã trở thành biểu tượng biểu tượng cho tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1947). Ảnh: Quốc Lê.

Đỉnh cao của thời kỳ kháng chiến chống Pháp là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong chiến dịch này, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đối đầu trực diện với một tập đoàn cứ điểm được coi là “bất khả xâm phạm” của một cường quốc quân sự top đầu thế giới. Vũ khí vẫn còn hạn chế, nhưng nghệ thuật quân sự, sự kiên trì và tinh thần hy sinh của người lính đã tạo nên ưu thế quyết định. Chiến thắng ấy không chỉ kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, mà còn chứng minh trước thế giới rằng sức mạnh của một quân đội không chỉ được đo bằng số lượng súng đạn, mà bằng ý chí và khả năng huy động sức mạnh toàn dân.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, sự chênh lệch về vũ khí càng trở nên rõ rệt. Quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn được trang bị những phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất thời bấy giờ: Không quân chiến lược, vũ khí công nghệ cao, hệ thống hậu cần toàn cầu. Trong khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn phải dựa nhiều vào vũ khí cá nhân, phương tiện cơ giới hạn chế, hệ thống tiếp tế giản đơn. Nhưng một lần nữa, ý chí con người đã vượt lên trên công nghệ và tài chính.

Hình ảnh người lính Trường Sơn gùi hàng bằng xe đạp trên những con đường ngập bùn nhão, dưới mưa bom bão đạn; những chiến sĩ dân quân tự vệ với súng 12 ly 7 sẵn sàng nghênh chiến với máy bay địch; những chiến sĩ đặc công trang bị thô sơ dãi nắng dầm mưa luồn sâu trong hậu cứ địch… đã làm nên một thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Ở đó, mỗi người lính không chỉ là một người lính đơn thuần, mà còn là một phần của mạng lưới chính trị – xã hội gắn bó với nhân dân. Sức mạnh cốt lõi của Quân đội Nhân dân Việt Nam vì thế không nằm ở hỏa lực, mà ở khả năng tồn tại, thích ứng và chiến đấu bền bỉ trong thời gian dài.

Súng tiểu liên AR15 của Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Lê Thị Hồng Gấm và súng trường carbin của Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Nguyễn Thị Út (chị Út Tịch) sử dụng trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: Quốc Lê.

Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 là minh chứng rõ nét cho sự trưởng thành toàn diện của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khi ấy, quân đội cách mạng đã có trong tay nhiều vũ khí hiện đại hơn trước, nhưng điều quyết định thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn vẫn là tinh thần tiến công, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các binh chủng, và niềm tin sắt đá vào mục tiêu thống nhất đất nước. Ý chí thép của người chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã biến thời cơ chiến lược thành hành động quân sự dứt khoát, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn.

Điều làm nên huyền thoại về Quân đội Nhân dân Việt Nam không chỉ là những chiến thắng lịch sử, mà còn là phẩm chất con người được tôi luyện qua chiến tranh: Kỷ luật tự giác, tinh thần chịu đựng gian khổ, lòng trung thành với Tổ quốc và nhân dân. Đó là một quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, nơi mỗi người lính hiểu rõ vì sao mình cầm súng và sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung. Chính nhận thức ấy đã tạo nên sức mạnh tinh thần vượt trội, giúp bù đắp cho những thiếu hụt về vật chất trong những giai đoạn khó khăn nhất.

Trong bối cảnh hòa bình và hội nhập ngày nay, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã và đang từng bước hiện đại hóa, tiếp cận khoa học – công nghệ quân sự tiên tiến. Tuy nhiên, truyền thống “vũ khí thô sơ, ý chí thép” vẫn giữ nguyên giá trị cốt lõi. Truyền thống ấy nhắc nhở rằng, dù trang bị có thay đổi, nền tảng sức mạnh của quân đội Việt Nam vẫn nằm ở con người, ở bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.

Nhìn lại chặng đường đã qua, câu chuyện về Quân đội Nhân dân Việt Nam không phải là câu chuyện của quá khứ khép kín, mà là di sản sống động cho hiện tại và tương lai. Đó là bài học về sức mạnh tinh thần, về khả năng vượt khó, và về niềm tin rằng một dân tộc có ý chí độc lập và một quân đội vì nhân dân sẽ luôn đủ sức bảo vệ Tổ quốc, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Quy tập hai bộ hài cốt liệt sỹ kèm di vật thời chiến tại Khe Sanh

Cùng với hai bộ hài cốt liệt sĩ, đội công tác tìm thấy nhiều di vật như tăng nguyên tấm, vải dù, dây dù, cúc áo, đế giày, khuy giày, mắt nịt, nắp hộp dầu...

Chiều 2/11, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 337 (Quân khu 4) cho biết đơn vị đã phát hiện và quy tập được 2 hài cốt liệt sĩ tại xã Khe Sanh, tỉnh Quảng Trị. Cụ thể, trong khoảng thời gian từ ngày 21/10 đến 2/11, Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ tiến hành tìm kiếm tại thôn Xa Re, xã Khe Sanh và cất bốc được 2 hài cốt ở độ sâu từ 0,8 đến 1 mét.

Các hài cốt được phát hiện vẫn được bọc trong bao tử sĩ, bên trong còn nhiều mảnh xương. Cùng với đó, đội công tác tìm thấy nhiều di vật như tăng nguyên tấm, vải dù, dây dù, cúc áo, đế giày, khuy giày, mắt nịt, nắp hộp dầu, lọ thủy tinh và dây thông tin.

Không có số lùi, tuổi 20 của những nữ lái xe vượt lửa Trường Sơn

Giữa mưa bom, bão đạn, Trung đội nữ lái xe Trường Sơn đã hoàn thành hàng nghìn chuyến xe với hàng vạn tấn hàng hóa, vận chuyển hàng trăm ngàn lượt bộ đội và thương binh... góp phần làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975.

Giữa tuyến lửa Trường Sơn huyền thoại, nơi "mưa bom bão đạn" tưởng chừng chỉ dành cho những tay lái gang thép, có một đơn vị đặc biệt đã đi vào lịch sử - Trung đội nữ lái xe mang tên anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thị Hạnh (sau là Đại đội nữ lái xe Trường Sơn C13) - đại đội nữ lái xe duy nhất của quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

“Mạng thông tin giả” của bộ đội Việt Nam trong Chiến dịch Tây Nguyên

Ta điều động Sư đoàn 968 đang hoạt động ở Hạ Lào về Kon Tum và Pleiku làm nhiệm vụ thay Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 bí mật hành quân xuống Nam Tây Nguyên đánh chiếm Buôn Ma Thuột.

"Mạng thông tin giả" trong Chiến dịch Tây Nguyên

Để địch tin rằng ta sẽ đánh Kon Tum, Pleiku, Quân Giải phóng đã triển khai “mạng thông tin giả” nhằm đánh lừa đối phương.

Đầu tháng 2/1975, một “mạng thông tin giả” được tung lên không trung. Ở Pleiku xuất hiện cụm điện đài của “Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên” giả, do tổ cơ yếu của Trung đoàn 19, cụm điện đài của Sư đoàn 968 và các đơn vị thuộc Trung đoàn Thông tin 29 khai thác. Khi các cụm điện đài phát sóng, lập tức các máy bay trinh sát L-19, OV-10 của địch thay phiên nhau ngày đêm quần lượn trên bầu trời để định vị các cụm điện đài của ta, chỉ thị mục tiêu cho máy bay tiêm kích ném bom tọa độ xuống các điểm xung quanh Kon Tum, Pleiku.

Bằng cách "triển khai giả" như trên, ta đã mô phỏng hoạt động của “Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên” giả bằng các phương tiện thông tin thật; đồng thời kết hợp với những biện pháp nghi binh chiến dịch khác như trinh sát giả, để lộ thông tin giả... bước đầu đã thu hút được sự chú ý của địch về hướng Kon Tum, Pleiku.

“Mang thong tin gia” cua bo doi Viet Nam trong Chien dich Tay Nguyen

Quân Giải phóng làm chủ sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy ở thị xã Buôn Ma Thuột, tháng 3/1975. Ảnh tư liệu

Cùng với “triển khai giả”, quân ta còn tiến hành “thông tin giả” để lừa địch. Trong lúc Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 bí mật hành quân về tập kết ở Nam Tây Nguyên, để tránh địch nghi ngờ, hai sư đoàn này để lại hai điện đài sóng ngắn 15W cùng báo vụ và toàn bộ quy ước vô tuyến điện sóng cực ngắn, hệ thống thông tin hữu tuyến điện cho Sư đoàn 968 sử dụng.

Hằng ngày, Sư đoàn 968 duy trì đều đặn công việc ở các vị trí của Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10. Các bộ phận làm nhiệm vụ nghi binh của Sư đoàn 968 vẫn theo nếp cũ phát đi những mệnh lệnh và những báo cáo giả trên mạng thông tin mang mật danh của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320; một số bức điện thể hiện ý định ta đang chuẩn bị tiến công vào Kon Tum, Pleiku. Cùng với việc phát đi những bức điện giả, để nghi binh thu hút địch về hướng Bắc Tây Nguyên, ta cho người phao tin sẽ đánh lớn vào Kon Tum, Pleiku và tổ chức mít tinh, hoan nghênh bộ đội về giải phóng Kon Tum, Pleiku...

Tuy nhiên, địch đã thu thập được một quyển sổ tay của chiến sĩ ta có ghi chép một số thông tin liên quan đến Buôn Ma Thuột; cùng với báo cáo của tình báo ngụy, tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2 đã điều Trung đoàn 45 xuống Ea H'leo để thăm dò và bảo vệ Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên, thông tin ta đánh vào Buôn Ma Thuột nhanh chóng bị nguồn tin của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ phủ nhận và cho rằng: Các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng vẫn tập trung ở hướng Pleiku và Kon Tum, hoạt động ở Nam Tây Nguyên chỉ là nghi binh.

Để làm cho địch tin ta sẽ tiến công ở Bắc Tây Nguyên, lực lượng thông tin được lệnh phát đi bức điện cho các đơn vị với nội dung: "Địch đã bị mắc lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã điều quân xuống phía Nam" và cố tình để địch thu được. Thông tin này tiếp tục gây nhiễu loạn hệ thống tình báo ngụy quân, buộc địch điều Trung đoàn 45 (Sư đoàn 23) về Pleiku để đối phó với Sư đoàn 968 (đúng theo ý đồ chiến dịch của ta).

Với chiến thuật “đưa tin giả”, ta đã lừa được địch, tập trung lực lượng đánh chiếm Buôn Ma Thuột và giành thắng lợi, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở phía Bắc Tây Nguyên, phá vỡ và chia cắt thế bố trí chiến lược của địch, buộc chúng phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Từ đó mở ra thời cơ thuận lợi để ta tiến hành cuộc tổng tiến công chiến lược.

Trung tướng Mỹ Charle Times, cố vấn cho ngụy quyền Sài Gòn khi đó đã thừa nhận: Bằng nghi binh qua làn sóng điện, Quân Giải phóng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của Quân khu 2, ngụy quân Sài Gòn ở Pleiku và Kon Tum.

Đọc nhiều nhất

Tin mới