Ở Ba Chúc (An Giang), ngoài những địa danh chết chóc thảm khốc như chùa Phi Lai, chùa Tam Bửu, cánh đồng Tân Quới, cầu Sắt Vĩnh Thông, thì có một quả núi chết chóc kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi, đó là núi Tượng.
Trong những năm 1976-1978, Pol Pot thi thoảng lại tấn công vào Ba Chúc. Lúc chúng tấn công dồn dập rồi rút về nhanh chóng, khi thì nã vài quả đạn pháo vào làng, giết hại vài người.
Bà con đã tìm ra giải pháp tránh đạn pháo, đó là đào hầm trong nhà, trong vườn. Ngoài ra, mỗi gia đình đều chọn một hang đá, hoặc đào hang trên núi Tượng để ẩn náu khi bọn Pol Pot tràn sang.
Núi Tượng còn có tên là Kỳ Lân Sơn, một trong 7 quả núi hợp thành tên gọi Thất Sơn kỳ vĩ và linh thiêng của đất An Giang. Quả núi này khá nhỏ, có chu vi 4km và cao 145m. Đứng từ xa nhìn lại, thấy quả núi nhác hình con voi, nên gọi là núi Tượng.
Núi Tượng có nhiều tầng văn hóa, một số hang động có dấu tích người tiền sử, tuy nhiên, chưa được các nhà khoa học để tâm, nghiên cứu.
Mỗi lần Pol Pot tấn công vào Ba Chúc, đồng bào sống quanh chân núi Tượng đều bỏ nhà chạy lên núi, rồi các gia đình cứ thế trốn vào những hang đá đã phân chia nhau từ trước.
|
Núi Dài, nơi nhiều người dân Ba Chúc trốn lên đó và thoát chết. |
Hang ít, người đông, vả lại, để đảm bảo bí mật, nhiều gia đình đã kiếm những khe ngách nhỏ, kín đáo, rồi đào bới, mở rộng thêm, nhằm lẩn trốn an toàn. Có gia đình còn đào hang mới sau những tảng đá lớn, dưới những hốc cây, trên vách đá, với mắt thường khó có thể phát hiện.
Thế nhưng, ít ai ngờ, bọn Pol Pot lại tấn công sâu vào nội địa, bao vây nhiều ngày, và lùng sục tìm dân để giết một cách tàn ác như vậy.
Ngày 18/4/1978, bọn Pol Pot tràn vào xã lúc nửa đêm, chặn các ngả đường, nên người dân ở quanh núi Tượng chạy hết lên núi, trốn trong các hang đá.
Trong khi một nhóm Pol Pot hành quyết cả ngàn người dân trốn trong chùa Phi Lai và chùa Tam Bửu, thì một nhóm bao vây, truy lùng trên núi Tượng.
Ông Nguyễn Văn Tiệm, người trông coi nhà mồ Ba Chúc chỉ tay về phía núi Tượng, cho biết: “Đến bây giờ cũng chưa rõ có bao nhiêu người chết ở trên núi Tượng, nhưng tui khẳng định rằng phải đến cả ngàn người. Đau xót nhất là gia đình bà Hà Thị Nga và đại gia đình bên vợ nhà tui.
Gia đình, họ hàng bên vợ nhà tui trốn trong hang bị giặc phát hiện giết mấy chục người. Nhà bà Nga cũng trốn cả lên núi Tượng, chui vào hang đá, bị bọn Pol Pot bắt được giết sạch.
Nếu bắt sống thì chúng dẫn giải xuống núi, đem ra cánh đồng Tân Quới giết, còn nếu mọi người trốn trong hang, chúng gọi không ra, thì chúng ném lựu đạn vào hang để giết.
Trên núi đó, có vô số di tích hang động đau lòng lắm. Bọn chúng ném lựu đạn vào hang, giết người vô tội, rồi lấp miệng hang làm mồ luôn. Oan hồn người dân vô tội còn uẩn khuất trong hang, nên chẳng ai dám lên ngọn núi ấy đâu”.
Ở núi Tượng, khi còn sống, chỉ có ông Ba Lê, anh rể ông Nguyễn Văn Tiệm, là dám lên quả núi này và thường xuyên lên núi, bởi trên quả núi ấy, có hang động, nơi vợ và con ông bị bọn Pol Pot giết hại. Ông đã lấp cửa hang chôn vợ con. Đêm đêm ông vẫn lên núi thắp nhang, gảy đàn, thổi sáo gọi linh hồn vợ con về. Mấy năm trước, ông qua đời vì bạo bệnh, quả núi trở nên hoang vu, chẳng ai còn lên đó nữa.
Núi Tượng có nhiều cây ăn quả như xoài, vú sữa, mít… thế nhưng, những cây trái trĩu trịt quả ấy cứ rụng xuống gốc cho ốc núi, ốc sên ăn, chứ người dân chẳng dám lấy về ăn.
Hốc đá nhỏ xíu, nhìn chẳng rõ miệng hang đâu nữa, cây cối mọc trùm, lâu lắm chẳng có người qua lại hương khói. Trước nó là hang đá có tên là Cây Da, bởi ngay trước cửa hang có một cây da án ngữ. Hang Cây Da nhỏ, không sâu, miệng hang lộ thiên, rất dễ bị lộ. Tuy nhiên, Pol Pot tấn công đột ngột quá, nên một số gia đình đã trốn tạm vào hang. Bọn ‘ác thú’ dẫn chó săn lên núi Tượng và dễ hàng phát hiện ra hang đá này.
Chúng đứng cửa hang với súng ống lăm lăm trong tay kêu gọi người dân ra hàng, nếu không ra chúng sẽ quăng lựu đạn vào hang giết sạch. Không còn cách nào khác, 17 con người lục tục kéo nhau ra khỏi hang.
Tại cửa hang, bọn Pol Pot thi nhau nã đạn, giết tại chỗ 14 người. Trong số những người trốn trong hang có chị Nguyễn Thị Chuột, có nhan sắc, nên chúng không giết ngay, mà thay nhau cưỡng hiếp chị ngay bên đống xác người. Cưỡng hiếp chị chán chê, chúng dùng gậy đâm vào vùng kín, khiến chị chết trong đau đớn.
Trong số 17 người trốn trong hang Cây Da, thì bố con ông Phan Văn Ba may mắn nhất. Khi biết bọn ‘ác thú’ này sẽ không tha mạng một ai, ông và cậu con trai 19 tuổi đã liều mạng xô ngã một tên Pol Pot, rồi phi thân xuống núi, ngã dúi dụi. Bọn chúng nã đạn theo, nhưng may mắn đạn không trúng.
Cách hang Cây Da vài trăm mét, là hang Dồ Đá Dựng, một chứng tích thảm khốc trên núi Tượng. Sở dĩ gọi là hang Dồ Đá Dựng, vì trước cửa hang có một tảng đá dựng thẳng đứng, án ngữ, che lấp miệng hang. Muốn vào hang đá này, phải trèo lên tảng đá án ngữ miệng hang mới vào được.
Vì hang đá này kín đáo, lại khá rộng, nên nhân dân tập trung vào trong hang khá đông, tới 72 người. Bọn Pol Pot lùng sục núi Tượng nhiều ngày, nhưng không phát hiện được hang Dồ Đá Dựng.
Do chạy giặc gấp rút, nên người dân không chuẩn bị kịp đồ ăn, thức uống, nên vài ngày sau thì trẻ em kêu khóc vì đói ăn, khát nước.
Ngày 29/4/1978, tức 11 ngày sau khi tấn công vào Ba Chúc, một tên nữ Pol Pot đi do thám đã nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Tên này kêu toáng lên ‘thận or’ (có người ở trong hang), rồi chạy đi báo cáo.
Do có nguy cơ lộ bí mật, sẽ bị bọn Pol Pot tàn sát, nên mọi người quyết định phải giết gấp 4 cháu bé đang kêu khóc ầm ĩ.
Không còn sự lựa chọn giữa tính mạng 4 đứa trẻ hoặc tất cả 72 con người, nên anh Trần Văn Tỏ đã phải bóp mũi đứa con trai 5 tuổi của mình. Rồi ông Hai Khế, ông Đức, cũng lần lượt giết 3 đứa cháu nội không chịu nín khóc.
Để đảm bảo an toàn, mọi người vần những tảng đá lớn lấp miệng hang lại, đồng thời xóa sạch mọi dấu vết.
Nghe tin nữ Pol Pot cấp báo, một toán lính chạy về phía hang Dồ Đá Dựng. Tuy nhiên, chúng tìm kiếm mãi mà không phát hiện ra hang đá nào có người trốn, nên 72 con người trốn trong hang đã bảo toàn được tính mạng.
Hôm sau, bộ đội chủ lực tấn công vào Ba Chúc, giải phóng vùng biên giới. Bà con ôm xác 4 đứa trẻ trên tay mà như đứt từng đoạn ruột.
Ngày nay, trên núi Tượng án ngữ vùng biên, vẫn còn vô số hang động, nơi vùi xác người dân vô tội, vì bị bọn Pol Pot quăng lựu đạn giết hại. Nhiều gia đình đã lấp luôn miệng hang làm mồ.
Tiếng sáo bi ai
Mấy năm trước, khi ông Ba Lê còn sống, người dân Ba Chúc sống dưới chân núi Tượng thi thoảng vẫn nghe thấy tiếng sáo bi ai vọng lại từ quả núi rậm rạp, u buồn.
Ở vùng đất Ba Chúc (An Giang) đau thương và nước mắt, cùng với bà Hà Thị Nga, thì ông Bùi Văn Lê, thường gọi là Ba Lê, là người đau khổ nhất thế gian này. Ông đã phải tự tay lấp hang chôn vợ và những người con thân yêu.
Ông Ba Lê nhà ở ngay chân núi Tượng. Ông mặc áo bà ba đen, tóc dài búi tó, đúng chất đạo sĩ thoát tục, nhưng đôi mắt thì lúc nào cũng nặng trĩu, u uẩn.
|
Ông Ba Lê hồi còn sống, là nhân chứng sống của vụ thảm sát Ba Chúc. |
Ông Ba Lê sinh năm 1940. 19 tuổi đã lấy vợ. 20 tuổi có con đầu lòng. Năm 1978, khi Pol Pot thảm sát Ba Chúc, ông tròn 38 tuổi và đã có tới 5 mặt con.
Để an toàn cho gia đình, ông chọn một khe nứt nhỏ trên núi Tượng, rồi khơi rộng miệng hang, đào sâu vào trong núi. Cái hang chỉ nhỏ bằng miệng thúng, khuất sau những tảng đá lớn. Khi chui vào hang, vần những tảng đá lớn lấp lại, thì khó ai có thể phát hiện.
Cứ mỗi khi Pol Pot đánh sang, ông lại xua vợ con chui vào hang ẩn nấp. Ông đã chuẩn bị đồ ăn, đồ uống, đủ sống nhiều ngày trong hang.
Bữa đó, Pol Pot tràn sang, ông đưa vợ, 5 con, cùng 2 người cô ruột trốn lên hang đá. Tổng cộng có 9 người trốn trong hang.
Chiều xuống, ông Ba Lê chui ra khỏi hang, đi xem xét mấy hang hốc quanh núi, thấy xác người la liệt. Có đến cả trăm xác người bị bọn Pol Pot kéo ra khỏi hang đập chết, bắn chết. Ông chạy quanh núi gom một số người còn sống trốn vào các hang chưa bị chúng phát hiện, bảo mọi người đừng chạy lung tung, chờ bộ đội đến cứu. Nhưng rồi số người đó cũng đều bị chúng phát hiện chỗ ẩn nấp và giết hết.
Nửa đêm, ông Ba Lê mò về nhà, thấy nhà cửa tan hoang. Bọn Pot Pot lấy sạch gạo, bắt hết gà, lợn.
Sớm hôm sau, khi mọi người vừa tỉnh dậy, đã nghe tiếng chó sủa xa xa vọng lại. Tiếng chó cứ to dần, rồi rõ mồn một. Khi tiếng chó sủa dữ dội ở cửa hang, thì ông nghe tiếng bọn Pol Pot quát tháo.
Chúng quát tháo một lúc, rồi thò súng vào miệng hang xả đạn. Ông Ba Lê khi đó đứng ngay miệng hang, nép sát vào vách đá nên không trúng đạn. Vợ, con, hai người cô ruột trúng đạn kêu la ầm ĩ.
Không còn cách nào khác, ông phải chui ra khỏi hang, giơ tay hàng. Hai tên Pol Pot lạnh lùng gí nòng súng vào mạng sườn. Khi chúng định bóp cò, thì bất thình lình ông nhảy xuống vực. Bọn chúng xả đạn bắn theo, tuy nhiên chỉ có 1 viên trúng phần mềm ở chân.
Bực mình, bọn Pol Pot đã tung lựu đạn vào trong hang. Ông Ba Lê nằm im sau gốc cây, cách bọn ác thú này độ 200m, nghe tiếng lựu đạn nổ mà như đứt từng khúc ruột.
Khoảng 1 tiếng sau, bọn Pol Pot rút đi, ông quay lại hang, thì người vợ yêu quý, 5 người con, 2 người cô ruột đã tan xác cả. Cái hang nhỏ xíu mà hứng mấy quả lựu đạn thì còn gì là người nữa.
Ông nhặt từng bộ phận xác vợ, 2 cô ruột để lên phía trên hang, 5 người con để phía dưới hang, rồi bê đá lấp kín hang lại, thành nấm mồ.
Ông ngồi bên miệng hang khóc lóc một lúc, rồi như sực tỉnh. Ông chạy khắp núi, gom được tới 50 người đang trốn chạy như bầy chim mất ổ trong bão.
Trong toán người này, có người muốn đi, người muốn ở lại ẩn náu, nhưng ông bảo rằng, nếu ở lại sẽ bị chúng xua chó săn tìm giết sạch, nên tất cả thống nhất trốn khỏi núi Tượng.
Ông dẫn đoàn người đi về hướng cầu sắt Vĩnh Thông. Lúc ông dẫn mọi người xuống chân núi, thì tận mắt cảnh tượng tàn sát lương dân kinh khủng nơi cánh đồng. Có tới mấy tốp Pol Pot dắt người dân ra cánh đồng giết hại. Xác người chồng chất ngoài cánh đồng.
Đợi bọn Pol Pot rút đi, ông kêu mọi người cùng bò dọc bờ ruộng, qua cánh đồng để trốn lên núi Dài. Tuy nhiên, cánh đồng vắng vẻ, chẳng có cây cối gì, lại đông người nhốn nháo, nên bọn Pol Pot phát hiện.
Bọn chúng hò nhau vác súng đuổi theo. Đoàn người như chim vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy về phía núi Dài. Ông chạy thục mạng, bọn chúng bắn đạn M79 sượt quần áo rách tơi tả mà không trúng người, chỉ trúng vào chân. Mặc dù hai chân dính đạn, nhưng ông vẫn chạy băng băng.
Chạy đến núi Dài thì đã 7 giờ tối, điểm lại chỉ còn 7 mạng người. Như vậy, đã có 43 người thiệt mạng.
Về núi Dài, ông và mọi người tiếp tục đi ngay. 5 giờ sáng hôm sau thì đến xã Lương Phi, được bộ đội đón, cho ăn, băng bó vết thương.
Ông Ba Lê là người thông thạo đường sá, nên vẽ lại đường vào núi Tượng. Cậu em ông đã dẫn mấy đồng chí bộ đội vào núi Tượng đánh giải tỏa, cứu được khá nhiều người mắc lại.
Suốt nhiều năm trời, ông Ba Lê như người mất hồn. Ngày ông thất thểu khắp làng, đêm lên miệng hang đốt nhang, lúc khóc lóc, lúc thổi sáo, kéo nhị ai oán cả cánh rừng.
Sau này, ông mở miệng hang, gom xương cốt vợ con, hai cô ruột đem về nhà mồ. Ông xây ở miệng hang ngôi mộ, rồi coi đó là nơi thờ chung. Ông làm một cái nhà thờ trong rừng, rồi hàng ngày vào đó tụng kinh siêu độ cho vợ con và an tịnh lòng mình.
Nhắc đến ông Ba Lê, người dân ở Ba Chúc từ người già đến trẻ con đều biết. Không chỉ là người đau khổ nhất thế gian này, mà ông còn là nghệ sĩ đờn ca tài tử tài hoa, là ông lang bốc thuốc cứu người. Đặc biệt, tên tuổi ông gắn với tiếng sáo gọi hồn hàng đêm trên núi Tượng sầu thảm, bi ai đến rợn người.
Ông Ba Lê mới qua đời vì bạo bệnh, tiếng sáo bi ai trên núi Tượng cũng không còn vang lên nữa. Hang đá bi thương đó đã được chính quyền đặt tên là hang Ba Lê. Trên núi Tượng, có tổng số 19 hang đá đau thương như vậy.