Vị vua nào trị vì 38 năm, có 510 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ là ai?

Trong 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông đã đưa đất nước phát triển rực rỡ, ghi dấu ấn với 510 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ và nhiều thành tựu khác.

Lê Thánh Tông có tên húy là Hạo, tự là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, là vị hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà hậu Lê. Ông trị vì từ năm 1460 đến năm 1497, tổng cộng 38 năm. Trong thời gian tại vị, ông sử dụng hai niên hiệu là Quang Thuận và Hồng Đức, trong đó thời kỳ Hồng Đức có nhiều thành tựu và được tán thưởng nhất nên ông còn được gọi là Hồng Đức Đế.

Lê Thánh Tông tư chất thông minh, học vấn uyên bác, giỏi về xử lý chính trị và văn học, nghệ thuật. Dưới thời đại của ông, nước Đại Việt phát triển rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và trở thành một cường quốc, cũng như đã khiến Quân chủ chuyên chế Việt Nam đạt đến đỉnh cao vàng sơn. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn như thời này - thời kỳ Hồng Đức thịnh thế. Điều đó khiến ông trở thành một trong những vị hoàng đế vĩ đại bậc nhất của lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt Nam.

Ảnh minh hoạ.
Ảnh minh hoạ.

Lên làm hoàng đế, Lê Tư Thành ra chùa Huy Văn đón mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao vào cung. Bà Ngô Thị Ngọc Dao nói: “Nay mẹ tuổi đã cao, ăn chay niệm phật đã quen, con để mẹ ở ngoài chùa này, cho yên tĩnh tuổi già”. Hoàng đế bèn sai dựng thêm điện cho mẹ ở, tôn làm Quang Thục hoàng thái hậu, hằng tuần ra chùa thăm mẹ. Có lần Lê Thánh Tông ra chùa thăm mẹ về muộn, lúc đó trời nhá nhem tối, khi tiễn chân ra cổng, bà mẹ đi trước, con đi sau và lúc đó có bà già quỳ mọp giữa đường. Ngọc Dao đỡ dậy hỏi han, bà già nói: Nhà tôi có nỗi oan tày trời đã mấy mươi năm nay, phi bà thái hậu thì không ai giải oan cho nhà tôi được, vậy nên dù biết vào đây là phạm trọng tội, tôi vẫn liều chết mong bà thái hậu minh oan cho. Nói xong, bà già đưa lên lá đơn viết sẵn.

Mẹ con trở vào chùa xem kỹ lá đơn, hoàng đế không hiểu đầu đuôi câu chuyện, thấy thế thái hậu nói: Mọi việc bà cụ trình trong đơn đều là sự thật. Sở dĩ lâu nay mẹ chưa nói cho con hay là vì con có biết cũng chưa ích gì. Vả lại con còn ít tuổi, sợ có hành động không hay. Sau đó, bà đã kể lại rõ ràng đầu đuôi câu chuyện cho hoàng đế nghe. Khi trở về cung, vua Lê Thánh Tông suy nghĩ khá lâu. Nhân trong một buổi thiết triều, ông sai quan đọc to lá đơn cho tất cả triều thần cùng nghe. Triều thần đề nghị minh oan cho Nguyễn Trãi, hoàng đế nói: “Tiền triều kết án Nguyễn Trãi có đầy đủ chứng cứ pháp lý, nay muốn xóa bản án ấy cũng phải có đầy đủ chứng cứ, có thế mới rõ ràng minh bạch”. Hoàng đế bèn xuống chiếu thông báo trong khắp dân gian, ai biết rõ chi tiết vụ án Lệ Chi Viên, viết sớ dâng về triều, nếu là quan sẽ được thăng hai cấp, dân thường được thưởng to, nếu là tội tù, nhẹ thì được tha, nặng thì giảm án, tử tù được miễn tội chết.

Không lâu sau triều đình nhận được lá sớ từ Lạng Sơn đệ về, kể rõ vụ án được dàn dựng như thế nào, đầy đủ mọi chi tiết, người dâng sớ là cháu họ Nguyễn Thị Anh, làm chức Ngự sử thời Lê Bang Cơ, vì trong một tối đỏ đen bị cháy túi vì cờ gian bạc lận của tay thái giám Tạ Thanh nên đã quá tay đánh chết Tạ Thanh, bị tội đồ đày đi Lạng Sơn. Tháng 7/1464, triều đình xét xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, truy phong Kim tử Vinh lộc đại phu Tán Trù Bá, cấp trả lại một trăm mẫu tự điền. Sai tìm xem con cháu còn ai, Phạm Bật đưa Phạm Anh Vũ, người vừa thi đỗ Hương cống ra trình, liền cho làm chức Đồng Tri châu. Theo gia phả họ Nguyễn thì dòng dõi Phạm Anh Vũ đến nay vẫn giữ họ Phạm, cư trú huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lê Thánh Tông là người quan tâm sâu sắc tới việc bảo vệ giang sơn xã tắc, gìn giữ chủ quyền quốc gia. Trước những mối đe dọa bởi nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, không chỉ cảnh giác đề phòng mà một số lần Lê Thánh Tông chủ động cho quân Bắc phạt không phải để chiếm đất, giành dân mà là răn đe, làm nhụt tham vọng của giặc và đề cao sức mạnh của Đại Việt. Trong việc tranh luận, đàm phán về vấn đề biên giới, ông chủ trương mềm dẻo nhưng quyết không nhân nhượng. Có lần nhà vua nói với các quan phụ trách việc biên cương rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được, ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.

Trong 38 năm Lê Thánh Tông làm vua, đất nước đã có 501 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ... Và một khi nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông đã xuống chiếu hủy án và minh oan cho Nguyễn Trãi. Chưa hết, vua Lê Thánh Tông còn cho tạc bia về Nguyễn Trãi với lời vinh danh mà hậu thế muôn đời sau không thể quên: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”. Câu này có nghĩa tấm lòng Ức Trai - Nguyễn Trãi sáng tựa sao Khuê. Chính nhờ vậy mà tên tuổi và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông mãi mãi trường tồn cùng thời gian và đất nước. Và công cuộc giữ nước, cũng như ý chí kiên quyết trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia của ông sẽ còn là bài học vô giá cho hậu thế muôn đời.

Theo: Theo Báo Bình Phước

8 mỹ nhân khiến vua chúa mê muội, đổi thay cả cục diện Trung Hoa

Từ Muội Hỉ, Bao Tự đến Tây Thi, những giai nhân này không chỉ nổi danh nhan sắc mà còn trở thành “tác nhân” khiến triều đại lung lay, lịch sử sang trang.

Muội Hỉ

Theo sử sách, Kiệt Vương là người tàn bạo. Trong một lần đem quân đi đánh chư hầu, tù trưởng bộ lạc Hữu Thi cầu hòa với Kiệt Vương, dâng tặng trâu bò, ngựa tốt, mỹ nữ - bao gồm em gái của tù trưởng là Muội Hỉ. Say mê trước sắc đẹp của Muội Hỉ, Kiệt Vương tha cho Hữu Thi. Một mỹ nhân đổi lấy bình an cho cả bộ lạc, hiến vật ấy quả xứng là đệ nhất.

Vì sao vua Lê và Thiên hoàng đều không thật sự có quyền?

Thiên hoàng Nhật và vua Lê Việt Nam đều là biểu tượng danh nghĩa, còn quyền lực thực sự nằm trong tay Mạc phủ Tokugawa và các chúa Trịnh – vì sao lại như vậy?

Trong lịch sử chính trị Đông Á, hiện tượng “lưỡng đầu chế” – tức sự tồn tại song song của hai trung tâm quyền lực trong một quốc gia – không phải là hiếm. Hai mô hình tiêu biểu cho hiện tượng này là mối quan hệ giữa Thiên hoàng và Mạc phủ ở Nhật Bản (đặc biệt từ thời Kamakura đến Edo), và mô hình vua Lê – chúa Trịnh ở Việt Nam thời Lê Trung Hưng (1533–1789).

Biểu tượng và thực quyền trong thể chế phong kiến Nhật – Việt

Vua chúa xưa chống nóng độc đáo thế nào?

Nhiều phương pháp chống nóng tinh tế, xa hoa và vô cùng độc đáo đã ra đời, phản ánh trí tuệ cũng như văn hóa hưởng thụ và quyền lực của các vương triều cổ đại.

Trong dòng chảy huy hoàng của lịch sử, khi mùa hè kéo đến với cái nắng chói chang và oi bức, không chỉ người thường mà ngay cả các bậc vua chúa – những người sống trong nhung lụa và quyền uy – cũng phải tìm cách để thoát khỏi sức nóng ngột ngạt của thời tiết. Tuy có trong tay mọi nguồn lực, nhưng trong thời đại chưa có điện và máy lạnh, việc chống lại cái nóng vẫn là một thách thức lớn. Tuy nhiên, chính từ sự thách thức đó mà nhiều phương pháp chống nóng tinh tế, xa hoa và vô cùng độc đáo đã ra đời, phản ánh rõ nét không chỉ trí tuệ mà còn cả văn hóa hưởng thụ và quyền lực của các vương triều cổ đại.

Tại Trung Hoa phong kiến, đặc biệt là dưới các triều đại như Đường, Tống và Thanh, hoàng đế và hoàng tộc sử dụng cả kiến trúc, nghệ thuật và y học để làm mát cơ thể và không gian sống. Trong Tử Cấm Thành, hệ thống nhà cửa được xây dựng với mái ngói lưu ly, hành lang dài có mái che và hồ nước trải rộng – tất cả đều được thiết kế để tối ưu việc điều hòa không khí. Các khu vườn trong cung thường được bố trí hồ sen, dòng suối nhân tạo, tạo nên vi khí hậu dịu mát. Vào mùa hè, hoàng đế thường không ở lâu trong cung chính mà lui về các cung điện mùa hè như Di Hòa Viên hay Viên Minh Viên. Di Hòa Viên chẳng khác nào một "kỳ quan chống nóng" với hồ Côn Minh rộng lớn phản chiếu gió nước vào cung điện, trong khi hành lang dài phủ kín mái gỗ điêu khắc tinh xảo là nơi tản bộ lý tưởng trong cái nóng mùa hè.

Đọc nhiều nhất

Tin mới