Vì sao thương cảng Vân Đồn được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt?

Vào ngày 24/10/2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký quyết định công nhận thương cảng Vân Đồn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) và đình Trà Cổ (TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) là Di tích quốc gia đặc biệt.

Sau đây là những thông tin khái quát về thương cảng Vân Đồn trong lịch sử và hiện trạng của di tích đặc biệt này.
Thương cảng đầu tiên, quan trọng nhất của Đại Việt
Vân Đồn là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Theo Báo Quảng Ninh, tên địa danh Vân Đồn được ghi chép trong sử sách lần đầu năm Đại Định thứ 10, năm 1149. Khi mới xuất hiện, Vân Đồn là một trang thuộc đạo Hải Đông. Dưới thời Lý, hệ thống hành chính các cấp được tổ chức lại từ thời Lý Thái Tông (Thái Tổ) và về sau ngày càng được hoàn thiện dần trên cơ sở các đơn vị hành chính là đạo từ thời Đinh, tiền Lê…
Tuy nhiên, phải đến dưới thời Trần, Vân Đồn mới thực sự phát triển mạnh mẽ, trở thành thương cảng lớn và có vị trí quan trọng nhất của Đại Việt. Điều này được Đại Việt sử ký toàn thư chép lại rằng: “Nhiều đoàn thương thuyền trước đây vào các cửa biển Tha, Viên ở châu Diễn, nay “phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn”. Thời bấy giờ, do Vân Đồn là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi tập trung của thuyền bè các nước buôn bán và cư trú nên vấn đề quản lý an ninh chính trị được hết sức chú trọng.
Vi sao thuong cang Van Don duoc xep hang Di tich quoc gia dac biet?
Một góc thị trấn Vân Đồn, huyện lỵ của huyện Vân Đồn, nhìn từ trên cao. Ảnh: Đỗ Phương / Quân Đội Nhân Dân.
Công việc trấn giữ, quản lý vùng Vân Đồn và miền Đông Bắc thường được vua Trần giao cho các thân vương, đại thần trọng chức. Nổi bật trong số đó là Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Với chính sách ngoại thương cởi mở, thông thoáng của nhà nước đã tạo điều kiện để Vân Đồn trở thành thương cảng sầm uất, nhộn nhịp và thịnh trị nhất dưới thời Trần.
Cũng tại thời kỳ này, đã hình thành rõ rệt các bến thuyền neo đậu phục vụ cho việc giao thương. Theo đó, các công trình tâm linh tại đây cũng được đầu tư chú trọng; đặc biệt là khu vực trung tâm của thương cảng như: Đảo Cống Tây, với 5 ngôi chùa và 1 Bảo tháp… mang lại cho lịch sử dân tộc nét văn hoá đặc trưng của biển đảo vùng Đông Bắc.
Qua thời thuộc Minh, Vân Đồn tiếp tục được chính quyền đô hộ chú trọng phát triển. Vân Đồn thời kỳ này vẫn giữ vai trò một trung tâm kinh tế lớn, một cửa ngõ giao thương trọng yếu của nước ta.
Sang thời Lê sơ, do ảnh hưởng của thể chế quân chủ mô hình Nho giáo, các Hoàng đế nhà Lê sơ, đặc biệt từ thời Lê Thánh Tông (1460-1497) đã không ngừng kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến việc hạn chế sự phát triển của kinh tế thương nghiệp, nhất là các cảng thị ngoại thương. Với các chính sách quản lý chặt chẽ, mà thương cảng Vân Đồn ở thời kỳ này có dấu hiệu sút giảm so với thời kỳ trước đó.
Thời nhà Mạc tiếp tục mở cửa thương mại nên hoạt động giao thương tại Vân Đồn hưng thịnh trở lại. Nhà Mạc cho xây dựng chùa và thành luỹ để phòng thủ. Thời Lê Trung hưng, giao thương tại thương cảng này vẫn được phát triển. Nhà Lê còn xây dựng thêm đình làng để làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh cho cư dân biển như đình Cống Cái, đình Cái Làng thuộc Quan Lạn.
Cho đến cuối thế kỷ 17, các thuyền buôn được vào sâu trong nội địa buôn bán, bến Nứa của Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) đã vươn lên trở thành các trung tâm giao thương mới. Thương cảng Vân Đồn đã không còn giữ vai trò trung tâm thương mại kinh tế nữa.
Đến thời Nguyễn, thương cảng Vân Đồn tiếp tục suy giảm về vai trò kinh tế và vị thế chính trị. Vai trò lịch sử của Vân Đồn với tư cách một cảng thị quốc tế đã chính thức khép lại.
Dấu xưa còn lại
Vào giai đoạn hưng thịnh, thương cảng Vân Đồn không chỉ hoạt động đơn tuyến với chỉ một bến cảng duy nhất mà là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Trên phạm vi khoảng 200 km2 của huyện Vân Đồn ngày nay từng tồn tại các bến: Cống Đông, Cống Tây (xã Thắng Lợi); Cái Làng, Cống Cái (xã Quan Lạn); Cái Cổng, Con Quy (xã Minh Châu); Cống Yên, Cống Hẹp (xã Ngọc Vừng).
Vi sao thuong cang Van Don duoc xep hang Di tich quoc gia dac biet?-Hinh-2
Bến Cống Đông, Cống Tây, từng có vai trò quan trọng trong thương cảng Vân Đồn xưa. Ảnh: iVIVU.
Theo Báo Quảng Ninh, từ thập niên 1970 trở lại đây, qua nhiều đợt khảo sát, nghiên cứu và khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện dọc chiều dài hai bên bờ của hai đảo Cống Đông và Cống Tây của xã Thắng Lợi và bến Cái Làng của xã Quan Lạn, dày đặc các mảnh sành, đồ gốm men Việt Nam và đồ gốm sứ Trung Quốc có niên đại kéo dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 17. Ở những vụng to, nhỏ ăn sâu vào lòng đảo, các mảnh gốm sứ cổ ken dày lớp lớp cho thấy đây là các bến bãi cổ của hệ thống thương cảng Vân Đồn xưa.
Ngoài dấu tích các bến cảng cổ, đảo Cống Tây còn có dấu vết của 5 ngôi chùa và một ngọn bảo tháp thời Trần được xây dựng trên đảo. 5 ngôi chùa đó là chùa Lấm, chùa Cát, chùa Vụng Chuồng Bò, chùa Trong, chùa Vụng Cây Quéo.
Các đợt nghiên cứu, khai quật sau này đã làm sáng tỏ thêm rằng Cống Tây, Cống Đông từng là một trong những địa điểm quan trọng của hệ thống thương cảng cổ Vân Đồn trong nhiều thế kỷ; là điểm trung chuyển của “con đường gốm sứ” đi qua Vịnh Hạ Long
Vào năm 2003, ở bến Cống Đông, Cống Tây và bến Cái Làng ở huyện Vân Đồn đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 59/2003/QĐ-BVHTT.

Cổ vật cực quý khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam

Phía sau những cổ vật này là câu chuyện đầy ý nghĩa về lịch sử thực thi chủ quyền biển trong suốt hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.

Co vat cuc quy khang dinh chu quyen bien dao Viet Nam
Những cổ vật được phát hiện tại các di tích tiền – sơ sử duyên hải Việt Nam cho thấy các nhóm cư dân Việt cổ đã có quan hệ mật thiết với nhau và có cuộc sống gắn bó với biển. Ảnh: Dấu in hoa văn bằng gốm thuộc văn hoá Hoa Lộc, cách ngày nay khoảng 4.000–3.000 năm, hiện vật tại một trưng bày chuyên đề ở Hà Nội.

Nở hoa thế kỷ chỉ một lần và sự tái sinh bí ẩn của loài tre Henon

Hoa tre Henon cứ 120 năm mới nở một lần sau đó biến mất trong nhiều năm.

Một loài tre lạ thường sắp ra hoa lần đầu tiên sau hơn 100 năm, điều này có thể cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về quá trình tái sinh bí ẩn của nó.

No hoa the ky chi mot lan va su tai sinh bi an cua loai tre Henon
Một măng tre Henon (Phyllostachys nigra var. henonis) trước khi ra hoa
Phyllostachys nigra var. henonis, hay còn gọi là tre Henon, chỉ ra hoa 120 năm một lần trước khi tàn lụi. Thế hệ hiện tại của loài này dự kiến sẽ ra hoa vào năm 2028. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Hiroshima ở Nhật Bản nhận thấy rằng một số mẫu vật địa phương đã bắt đầu ra hoa sớm - và họ nhân cơ hội này để nghiên cứu về loài bí ẩn này.
Trong một nghiên cứu được công bố ngày 12 tháng 6 trên tạp chíPLOS One, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nhiều mẫu vật nở hoa không chứa bất kỳ hạt nào. Nhóm nghiên cứu cũng quan sát thấy không có các thân cây mới phát triển từ hệ thống rễ của những cây đã ra hoa, đồng thời cho thấy việc sinh sản vô tính bị hạn chế. Điều này có nghĩa là nhiều cánh đồng tre rậm rạp khó có thể tái sinh và có thể biến mất và được thay thế bằng cánh đồng cỏ.
Tre Henon được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc vào thế kỷ thứ 9, nhưng các ghi chép khoa học về quá trình tái sinh của nó có rất ít. Theo các tài liệu lưu trữ từ thế kỷ thứ 9, các nhà nghiên cứu viết rằng thời gian nở hoa của nó là khoảng 120 năm và các cụm tre trước đó đã chết ngay sau khi ra hoa vào năm 1908, trước khi chúng tự tái sinh trên khắp Nhật Bản. Nhà nghiên cứu Toshihiro Yamada, nhà sinh vật học bảo tồn và sinh thái rừng tại Đại học Hiroshima, cho biết: “Các nhà khoa học 120 năm trước đã không mô tả rõ ràng về sự ra hoa của loài tre này".
No hoa the ky chi mot lan va su tai sinh bi an cua loai tre Henon-Hinh-2
Tre Henon nở hoa 120 năm một lần và lần ra hoa hàng loạt tiếp theo dự kiến vào khoảng năm 2028. (Nguồn ảnh: Toshihiro Yamada/Đại học Hiroshima)
Các nhà khoa học đã nghiên cứu một tập hợp các mẫu vật ra hoa nở sớm mà họ tìm thấy ở Hiroshima vào năm 2020 với 334 mẫu vật. Các nhà khoa học nhận thấy 80% mẫu vật đã nở hoa trong suốt ba năm không sinh ra hạt. Đến cuối năm 2022 sau khi nở hoa thì những cây tre đó không còn sống sót.
Yamada cho biết: “Câu hỏi đặt ra là làm thế nào những cây chết được thay thế bằng một thế hệ mới. Rõ ràng, việc tái sinh hữu tính là không có vì loài này không thể tạo ra hạt giống”.Yamada nói cũng có thể tre tái sinh dưới lòng đất, cuối cùng sẽ mọc thành những thân tre mới. Sau khi những thân tre này được hình thành, tre sẽ sinh sôi nảy nở để bù đắp cho sự sinh sản kém hiệu quả của nó.
Tuy nhiên, quá trình tái sinh này có thể mất nhiều năm và có thể dẫn đến mất sinh khối lớn trong thời gian chuyển tiếp - loài tre này bao phủ một vùng đất rộng lớn, có khả năng làm thay đổi hệ sinh thái mà nó hỗ trợ. Các nhà khoa học cho rằng điều này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho các ngành công nghiệp địa phương dựa vào tre làm nguyên liệu mà còn có thể dẫn đến các vấn đề môi trường.
Yamada cho biết: “Các dịch vụ tự nhiên mà tre mang lại cho con người bao gồm ngăn ngừa xói mòn đất và ngăn ngừa lở đất, cũng như thảm thực vật và độ che phủ rừng.” Ông bày tỏ mong muốn nghiên cứu quá trình ra hoa và tái sinh của loài tre này ở mảnh đất quê hương tổ tiên của chúng, đó là Trung Quốc, để hiểu rõ hơn về đặc điểm của chúng. Ông nói: “Liệu chúng có sản xuất hạt giống ở Trung Quốc không? Tôi muốn nghiên cứu điều đó trong khi quan sát quần thể tre ở Nhật Bản.”

10 phát hiện khảo cổ chấn động Việt Nam năm 2016

(Kiến Thức) - Di tích sơ kỳ đá cũ An Khê, nền chùa cổ Yên Bái, 43 mộ táng ở Bình Thuận... là các phát hiện khảo cổ chấn động Việt Nam năm 2016.

10 phat hien khao co chan dong Viet Nam nam 2016
Phát hiện khảo cổ chấn động nhất Việt Nam năm 2016 chính là công bố về việc phát lộ các di tích sơ kỳ đá cũ ở An Khê (Gia Lai).  Phát hiện này là bằng chứng khẳng định, thượng lưu sông Ba, vùng An Khê là địa bàn sinh sống của cộng đồng cư dân cổ cách đây trên 80 vạn năm. Đây là mốc mở đầu cổ nhất về sự xuất hiện của con người và di tồn văn hóa của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Ảnh: ANTĐ.

Đọc nhiều nhất

Tin mới