Thân phận bí ẩn của các hoạn quan Trung Quốc bên trong Tử Cấm Thành

Nội cung trong Tử Cấm Thành là địa hạt riêng tối cao của các hoàng đế Trung Hoa. Đó là nơi không một người đàn ông nào khác được phép ở lại quá lâu.

Trong khi Tử Cấm Thành chỉ mới được xây dựng vào triều Minh ở thế kỷ 15 thì việc áp dụng “cung hình”và sử dụng hoạn quan ở Trung Quốc đã có từ trước đó rất lâu. Kể từ triều Tùy (581 – 618) trở về trước, cung hình là một trong “Ngũ hình”dùng để trừng phạt các tội nhân của hệ thống pháp hình Trung Quốc.

Tử Cấm Thành (Bắc Kinh). Ảnh: asiatravelhot.com.

Tuy nhiên, tịnh thân (thiến) cũng là cách để một người có thể được vào hầu hạ trong hoàng cung. Kể từ triều Hán (206 TCN – 220), các hoạn quan đã được tuyển chọn để phục dịch công việc hàng ngày trong nội cung. Cũng bởi thường xuyên tiếp xúc gần gũi với hoàng đế, hoạn quan có thể gây ảnh hưởng nhất định tới các quyết sách của hoàng đế cũng như có được một thế lực chính trị to lớn.

Các hoạn quan không có con cái nối dõi để truyền kế quyền lực nên không phải là mối đe dọa quá nghiêm trọng cho quyền lực của vương triều. Những vị hoàng đế quyền lực nhất thường có hàng ngàn phi tần, mỹ nữ trong nội cung. Dùng hoạn quan để hầu hạ cũng giúp họ loại bỏ mối lo các thê thiếp của mình mang thai với người khác.

Một tay che trời

Dù bị tước đi khả năng tự lập cho mình một vương triều tập quyền (không có con nối dõi), các hoạn quan vẫn hoàn toàn có thể tham gia vào việc phế lập hoàng đế. Nắm trong tay quyền lực to lớn, một số hoạn quan trở nên tha hóa, biến thành những con người tham lam, tàn nhẫn và gian hiểm. Trong các bộ phim cổ trang Trung Quốc, hoạn quan thường là những vai phản diện. Rất nhiều gian thần hoạn quan có thể tìm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Sự sụp đổ của triều Tần (221 – 206 TCN) dưới tay hoạn quan Triệu Cao là một ví dụ.

Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Ảnh: asiatravelhot.com.

Theo như sử sách chép lại, Triệu Cao xuất thân trong một gia đình quý tộc tông thất nhà Triệu (một trong số 7 nước thời Chiến Quốc). Vì cha mẹ của Triệu Cao phạm pháp, ông cùng với huynh đệ của mình mắc tội liên đới và bị xử cung hình. Triệu Cao vốn giỏi về hình luật và và pháp lệnh nên được Tần Thủy Hoàng thu nạp về dưới trướng rồi phong cho chức “Trung xa phủ lệnh”.

Dần dần, Triệu Cao trở thành một trong những cận thần thân tín của hoàng đế. Sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, Triệu Cao và Thừa tướng Lý Tư đã tiến hành một cuộc chính biến, bức hại thái tử Phù Tô cùng hai tướng quân thân cận của Phù Tô là Mông Điềm và Mông Nghị. Sau đó, Triệu Cao đưa con thứ của Tần Thủy Hoàng là Hồ Hợi lên ngôi làm một hoàng đế bù nhìn, tức Tần Nhị Thế.

Chỉ ba năm sau, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa gây ra một cuộc bạo loạn lớn. Triệu Cao nhiều lần giấu nhẹm tin bại trận, không cho Tần Nhị Thế Hồ Hợi biết rõ binh tình. Sau này, khi Lưu Bang và Hạng Vũ hai mặt tiến đánh vào Quan Trung, vì sợ tội, Triệu Cao đã bức Tần Nhị Thế phải tự sát.

Các bé trai phải tịnh thân từ nhỏ nếu muốn vào cung làm thái giám. Ảnh: guoqing.china.com.cn.

Nhị Thế chết rồi, Triệu Cao lại lập Tử Anhlên làm hoàng đế mới. Tử Anh biết rõ mình chỉ là con rối trong tay Triệu Cao và sẽ sớm bị phế bỏ một khi không còn giá trị lợi dụng. Tử Anh lập mưu giết chết Triệu Cao. Nhưng các cuộc nổi dậy đã không còn có thể dập tắt được nữa. Tử Anh đầu hàng Lưu Bang, người mở cơ nghiệp cho triều Hán sau này. Chỉ 3 năm sau ngày Tần Thủy Hoàng băng hà, dưới tay Triệu Cao, cơ nghiệp nhà Tần đã mau chóng sụp đổ.

Những đóng góp

Dù bị mang nhiều tiếng xấu trong lịch sử nhưng không phải tất cả các hoạn quan Trung Quốc đều đê hèn, nham hiểm. Một số thậm chí còn có công lớn cho sự phát triển văn hóa Trung Quốc.

Giấy viết, một trong “Bốn phát minh lớn”, được một hoạn quan dưới triều Đông Hán tên là Sái Luân tạo ra. Trịnh Hòa, một hoạn quan phục vụ dưới triều hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh, cũng từng chỉ huy đội tàu thương mại tiến hành những chuyến thám hiểm khắp các vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, Ả Rập, Ba Tư và Đông Phi, giúp kết nối thương mại giữa Trung Quốc với các quốc gia khác.

Ngoài ra, các hoạn quan trong nội cung cũng được cho là đã có công đóng góp cho âm nhạc cung đình Trung Quốc. Hoạn quan dưới triều Minh là những người Trung Quốc đầu tiên chơi nhạc cổ điển phương Tây. Sau này, hoàng đế Càn Long nhà Thanh cũng tập hợp một dàn nhạc thính phòng bao gồm các hoạn quan mặc quần áo và đội tóc giả theo kiểu châu Âu.

Thái giám cuối cùng Tôn Diệu Đình. Ảnh: history.cultural-china.com.

Sự kết thúc của triều Thanh vào đầu thế kỷ 20 cũng đánh dấu chấm hết cho chế độ quân chủ chuyên chế ở Trung Quốc. Đó cũng là dấu chấm hết cho lịch sử hoạn quan, thái giám. Năm 1924, khoảng 1500 hoạn quan cuối cùng đã bị trục xuất khỏi Tử Cấm Thành.

Những nhân chứng khi ấy kể lại rằng: các thái giám mang theo đồ đạc của mình trong những bao tải, vừa đi vừa khóc lóc thảm thương bằng một giọng the thé không giống nam, cũng chẳng phải nữ. Tháng 12/1996, Tôn Diệu Đình, hoạn quan cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc qua đời, chính thức kết thúc một truyền thống cổ xưa kéo dài nhiều thiên niên kỷ.  

Vì sao kẻ trộm khiếp vía kho báu khủng trong Tử Cấm Thành?

(Kiến Thức) - Bên trong Tử Cấm Thành có hàng chục chiếc giếng. Tương truyền, nhiều châu báu, của cải được cất giấu bên dưới những giếng này. Thế nhưng, không kẻ trộm nào dám lấy đi số báu vật này. Vì sao lại như vậy?

Vi sao ke trom khiep via kho bau khung trong Tu Cam Thanh?
 Tử Cấm Thành là nơi ở của các đời hoàng đế nhà Minh và Thanh. Theo đó, hoàng cung xa hoa, lộng lẫy của bậc đế vương Trung Quốc được cho là cất giữ nhiều ngọc ngà, châu báu giá trị.

Hãi hùng hồn ma không chân “ám” Tử Cấm Thành ở Trung Quốc

Tử Cấm Thành ở Trung Quốc là địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng. Bên cạnh những giá trị văn hóa - lịch sử, nơi đây thu hút sự tò mò của nhiều người bởi câu chuyện về hồn ma không chân gây ám ảnh.

Hai hung hon ma khong chan “am” Tu Cam Thanh o Trung Quoc
 Một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất thế giới là Tử Cấm Thành ở Trung Quốc. Nằm tại thủ đô Bắc Kinh, Cố Cung (tên gọi khác của Tử Cấm Thành) là nơi ở của nhiều vị vua nhà Minh và nhà Thanh. Do đó, nơi đây lưu giữ nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử, kiến trúc...

Giải mã bí ẩn Tử Cấm Thành: Những kỳ án động trời trong nội cung

Tử Cấm Thành vốn là cố cung bất khả xâm phạm với hệ thống quan lính canh gác dày đặc. Nhưng trong hơn 500 năm tồn tại vẫn xảy ra những vụ án động trời.

Tử Cấm Thành (nằm ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay) là trung tâm chính trị, nơi sinh sống của vua chúa 2 triều đại nhà Minh và Thanh.
Các cung điện đồ sộ trong Tử Cấm Thành được xây dựng vào năm thứ 4 đời vua Vĩnh Lạc - vị hoàng đế kiệt xuất của triều Minh. Sau đó, Tử Cấm Thành không ngừng được xây dựng thêm, mở rộng hơn.
Thời xưa, vua chúa coi mình là chân mệnh thiên tử (con trời) nên họ có quyền lực tối cao. Các vị hoàng đế cũng cho rằng, cung điện của họ là "bản sao" được xây dựng giống thiên cung trên trời.
Một nơi thiêng liêng như vậy thì không thể để dân thường, lưu dân lui tới. Chính vì lẽ đó mà nó có tên là Tử Cấm Thành. Thậm chí, dưới triều nhà Thanh, vương công đại thần có thể vào được Tử Cấm Thành cũng hạn chế.
Tử Cấm Thành được phòng vệ nghiêm ngặt với tường rào, hào sâu, tầng tầng lớp lớp vệ quân dày đặc. Nhưng trong hơn 500 tồn tại, nơi đây vẫn xảy ra nhiều vụ án kinh thiên động địa.
Đạo sĩ lẻn vào cung thông dâm với cung nữ
Vào triều nhà Minh có rất nhiều hoàng đến tôn sùng đạo giáo. Vì thế trong xã hội xuất hiện nhiều đạo sĩ và thường xuyên được vào cung cấp. Cũng từ khe hở này mà đạo sĩ tìm cách trà trộn vào cung.
Sử sách ghi lại, vào năm thứ 12 đời Minh Hiến Tông (1476) có một yêu đạo tên Lý Tử Long đã dùng tà môn ngoại đạo làm u mê lòng người. Không ai hiểu ông ta đã giảng đạo gì mà thái giám và cung nữ trong cung rất tôn sùng ông ta. Thậm chí còn coi như thánh sống và thường xuyên dẫn vào cung cấm.

Ngọ môn trong Tử Cấm Thành.
Đám thái giám còn dẫn ông ta vào vãn cảnh núi Vạn Thọ Cùng lúc ấy trong cung có cung nữ mơ muốn được hoàng thượng lâm hạnh để mang long thai nên đã mời Lý Tử Long đại sư đến làm phép. Ông ta giả thần giả quỷ để thông dâm với cung nữ này.
Sự việc chỉ bị bại lộ khi cấm vệ quân phát hiện ra. Ông ta cùng với nhiều thái giám bị chặt đầu bên trước dân chúng làm gương.
Việc này khiến Minh Hiến Tông lo lắng về sự an nguy của hoàng cung. Vì lẽ đóng mà ông thành lập Tây Xưởng. Đồng thời cho thái giám Uông Trực thống lĩnh Tây Xưởng. Cũng vì thế mà sinh ra chuyện tên thái giám này làm lũng loạn triều cương.
Hòa thượng lẻn vào hoàng cung
Khi nhà Thanh lên cai trị, cung cấm nghiêm minh hộ quân dũng mãnh vì thế cẩm thành tương đối là an toàn và bình yên. Nhưng sau đời Càn Long, trật tự xã hội không được như trước. Đến đời Gia Khánh các tổ chức tông giáo dân gian mọc lên rất nhiều.
Vào năm thứ 28 Càn Long (tức năm 1763), vào một ngày tháng Chạp lạnh giá, có một tăng nhân tên Hồng Ngọc vừa đi đường vừa lẩm bẩm khi đi đến trường Tây Hoa Môn thì muốn vào Tử Cấm Thành nhưng bị hộ vệ trực cổng thành ngăn lại.
Người này không chịu rời đi mà liên mồm nói xằng bậy. Đám hộ quân đành phải bắt giam vào ngục và thẩm vấn. Sau này thái y khám bệnh thì hóa ra tăng nhân này bị chứng bệnh thần kinh. Cuối cùng hắn được thả ra và giao lại cho viên tại Xương Bình Châu quản thúc.
Năm thứ 9 Gia Khánh (tức năm 1805) lại xảy ra một vụ án cung cấm. Vào tháng Giêng tại Kính huyện, phủ Ninh Quốc, An Huy có vị hòa thượng tên Liễu Hữu sau khi vân du đến núi Phổ Đà, Triết Giang đột nhiên nảy sinh ham muốn vào thành trình diện vua.

Vườn Ngự Uyển trong Tử Cấm Thành.

Ông ta tự tưởng tượng ra cảnh hoàng thượng ban thưởng cho mình làm trụ trì, Sau đó gặp mặt và mời đi tuần thú phương Nam. Nghĩ vậy, Liễu Hữu đi từ Giang Nam qua Sơn Đông đến Bắc Kinh.
Vì muốn bái kiến hoàng thượng mà ông nhiều lần quỳ trước Đông Hoa Môn để tìm cơ hội vào cung. Tuy nhiên, hộ quân không cho vào nhưng ông không nản lòng.
Nửa năm sau, trong cái rét căm căm, Liễu Hữu lại tiếp tục đến đứng ngoài Đông Hoa Môn nhưng lại bị hộ quân gác cổng đuổi đi. Lần này ông không rời đi mà đến bên ngoài Đông Hoa Môn của Cảnh Sơn ngồi suốt đêm.
Đến sáng sớm ông thấy vài người đốt đèn cầm hộp thức ăn đi về phía mình thì đoán đây là đội Bát Thành đang mang thực phẩm vào cung. Ông liền trà trộn vào đám người này đi qua Thần Vũ Môn.
Sau khi lọt vào trong, Liễu Hữu đi vào hành lang hẹp phía Đông bên phải nhưng thâm cung địa điện, tường cao, đêm tối ánh sáng không rõ nên đành men theo bờ tường đi về hướng Nam, chưa được bao xa thì bị vệ quân đi tuần ban đêm bắt giam.
Sự việc đến tai vua Gia Khánh, Liễu Hữu bị ép hoàn tục, đánh 60 trượng, lưu đầy một năm và đeo gông hai tháng thị uy trước dân chúng. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới