Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân, nhà nghiên cứu lịch sử Trần Viết Điền để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại là Lý Lãng Công, người được coi là ông nội của vua Lý Công Uẩn.
1 trong 12 sứ quân
Lịch sử ghi nhận Lý Khuê hay Lý Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại.
Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh nhau với quân Đinh Bộ Lĩnh bị thua và tử trận ở làng Dương Xá. Còn thần tích đền thờ Lưu Cơ ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, Hưng Yên (tức đất Siêu Loại xưa - PV) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê.
Thôn Dương Đanh của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu? Con cháu của Lý Khuê còn không? Sứ quân Lý Khuê có mối quan hệ gì với Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn Hạnh chùa Lục Tổ hay không?
|
Chùa Minh Châu (Cha Lư) nơi được bài kệ coi là “đuôi rồng”. |
Theo tìm hiểu của ông Điền, miền đất Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ cùng các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Qúy An, Thiền Ông, Vạn Hạnh...
Sứ quân Lý Khuê đặt bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết được lực lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng hộ... Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật giáo lúc bấy giờ.
Gần đây hòa thượng Thích Minh Châu nêu nhận định: “Chư tăng là người hiểu biết trong xóm làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân kính trọng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đứng về phía những người yêu nước. Nhiều tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng”.
Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại, cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một Phật tử có uy vọng và tất nhiên không thể không có liên hệ với chùa Tiêu.
|
Vườn bảo tháp trên núi Tiêu Sơn. |
Tiên đoán họ Lý làm vua
Qua “Thiền uyển tập anh ngữ lục”, được biết Thiền sư Định Không (730 - 808) thời thuộc Đường, người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn được củng cố và phát triển họ Lý làm vua.
Khi sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng năm 785 - 805 đã đào được pháp khí cổ, giải đoán họ Lý về sau có người làm vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Tâm nguyện của thiền sư được ký gửi qua bài kệ:
“Pháp lại xuất hiện/Thập khẩu đồng chung/Lý thị hưng vương/Tam phẩm thành công”. Dịch nghĩa: Pháp khí hiện ra/Khánh đồng mười tấm/Họ Lý làm vua/Công đầu Tam phẩm.
Trong bài kệ dự đoán, câu cuối “Tam phẩm thành công” được dịch “Công đầu tam phẩm” phải chăng chưa ổn? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi truyền thừa cả trăm năm?
|
Nhà nghiên cứu Trần Viết Điền cho rằng, để tìm hiểu nguồn gốc vua Lý thì phải chú ý đến ông nội Lý Khuê. |
Ở đây có thể hiểu “Tam phẩm” là ba đời họ Lý mới thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: “Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành”.
Quả là sau đó, dị nhân đến phá hoại mạch đất là Cao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền pháp ý của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quý An.
Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là Thiền Ông về những pháp thuật “tài bồi thiên đức” cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp. Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền tâm nguyện của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh.
Chính Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc sứ mạng mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là chiến lược trăm năm được vạch ra từ thời Định Không.
Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng Công là một mắt xích trong chiến lược ấy và được thầy trò Thiền Ông - Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn điều hợp.
Chùa trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo “Thiền uyển tập anh” là nơi tập trung các vị sư có khát vọng về một vị minh quân, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật giáo nói chung.
Trưởng lão Đinh La Quý An biết phong thủy, giỏi Thái ất Thần kinh đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp. Thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua.
Bài kệ và cây gạo
Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp.
Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ:
“Đại Sơn long đầu khởi/Cù Vĩ ẩn Minh Châu/Thập bát tử định thành/Miên thụ hiện long hình/Thỏ kê thử nguyệt nội/Định kiến nhật xuất thanh”.
Có chuyện kể rằng, cố GS Trần Quốc Vượng từng dịch bài kệ như sau: “Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”.
Ông Nguyễn Đình Phúc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hồng kể: Năm 1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết cóngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, giáo sư đã thốt lên: “Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh”. Sau đó, giáo sư đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: “Đầu rồng hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu”.
Thế thì đầu rồng Đại Sơn ứng phát vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả“Thiền uyển tập anh ngữ lục” bắt đầu được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa khóa để giải mã bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn?
“Rõ ràng con cù (rồng non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời “tiềm long” ở Đình Bảng - Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Văn”.
Nhà nghiên cứu Trần Viết Điền