Rợn người những nhục hình khi phụ nữ thời xưa bị phát hiện ngoại tình

Những hình phạt dã man này có thể lấy đi tính mạng của người phụ nữ trót ngoại tình, phản bội chồng hay xen vào gia đình của người khác.

Người thời xưa trừng phạt phụ nữ ngoại tình, gian dối với thủ đoạn và phương pháp chỉ nghe thôi cũng rợn người. 

Chung thủy mãi mãi là vấn đề nan giải trong hôn nhân và gia đình. Thời phong kiến xa xưa, quan niệm bảo thủ, chữ trinh còn quý hơn vàng. Chính vì thế nếu phụ nữ không chung thủy sẽ bị coi là tội đồ không thể dung thứ, khiến cả gia tộc hổ thẹn.

Thế cho nên, người thời xưa trừng phạt phụ nữ ngoại tình, gian dối với thủ đoạn và phương pháp chỉ nghe thôi cũng rợn người. Không ít phụ nữ thà chết, tự sát ngay chứ không muốn phải chịu đựng hình phạt sau khi bị bắt.

Ron nguoi nhung nhuc hinh khi phu nu thoi xua bi phat hien ngoai tinh

Hình phạt dành cho phụ nữ ngoại tình tàn bạo kinh hoàng

 Theo ghi chép, hình phạt đầu tiên dành cho phụ nữ ngoại tình là "U bế thuật", hình phạt dùng chày gỗ đập và bụng và ngực của họ, mục đích là để tử cung tổn thương nghiêm trọng, từ đó phế bỏ vĩnh viễn khả năng sinh dục của người phạm tội.

Sau này, một thái y thời nhà Thanh đã lý giải một cách độc đáo về hình phạt này. Ông đã chỉ ra rằng có một chiếc xương nhỏ nằm sâu trong âm đạo của người phụ nữ được gọi là "xương xấu hổ". Áp lực mạnh mẽ có thể khiến bộ phận này rơi xuống, bịt kín âm đạo, kể từ đó về sau người chịu phạt sẽ không thể quan hệ được nữa.

Hình phạt thứ hai gọi là "Tỏa âm thuật". Đúng như thế gọi, hình phạt này dùng để chỉ hành động khâu kín âm hộ của phụ nữ phạm tội ngoại tình bằng kim và chỉ. Tuy nhiên, hình phạt này quá đau đớn và kinh khủng nên không được sử dụng chính thức mà chỉ lưu truyền trong dân gian.

Để chứng thực cho hình phạt này, ở Hào Châu, An Huy, Trung Quốc vẫn còn một tòa nhà cổ chuyên để thực hiện hình phạt này gọi là "Tỏa âm lâu".

Ron nguoi nhung nhuc hinh khi phu nu thoi xua bi phat hien ngoai tinh-Hinh-2

Hình phạt thứ ba là "Kỵ mộc lư". Sự khác biệt giữa hình phạt này với hai hình phạt trên là "Kỵ mộc lư" có thể cướp đi sinh mạng của người phụ nữ phạm tội ngoại tình.

Để thực hiện hình phạt này, nạn nhân sẽ bị lột trần và buộc vào một dụng cụ tra tấn tương tự như yên ngựa. Một cọc tre thẳng đứng được đặt trên yên và đưa thẳng vào âm đạo của người phụ nữ, sâu đến tử cung. 

Khi dụng cụ tra tấn được đẩy, thiết bị bên dưới sẽ di chuyển khiến cây tre chuyển động theo, đập vào tử cung và làm tổn thương các cơ quan nội tạng trong bụng. Chính vì vậy, hình phạt này khó mà bảo toàn tính mạng của người phạm tội.

Hình phạt tứ tứ là "Oạt âm thuật", đúng như tên gọi, đây là hình phạt vô cùng tàn khốc, mục đích là để cắt bỏ bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Tuy nhiên, điều kiện y tế cổ đại còn lạc hậu, hầu hết phạm nhân sẽ bị chảy máu không kiểm soát được, nhiễm trùng và chết trong đau đớn khôn cùng.

Ngoài ra còn có một phương pháp gọi là "Trạc khiếu pháp", đây là hình phạt dùng cọc gỗ trói gia súc để đánh đập, tàn phá phần thân dưới của người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Nghe thông cũng đủ thấy cực kỳ hung ác, đau đớn.

Bí ẩn về họa tiết trên long bào của vua Càn Long

Trung Quốc thời phong kiến, long bào là trang phục dành riêng cho Hoàng đế, bất kỳ ai khác mặc long bào đều sẽ bị phán tội chết.

Đặc điểm chủ yếu của Long bào chủ yếu ở cổ áo, vạt áo bên phải, và màu sắc. Đây là loại long bào thấp hơn lễ phục một bậc, lễ phục là loại trang phục thường được các Hoàng đế mặc trong các buổi yến tiệc thông thường hoặc tiếp quan đại thần.

Vốn là người đứng đầu đất nước nên trang phục của Hoàng đế rất cầu kỳ. Trước khi được khoác lên long thể của vua, long bào phải trải qua rất nhiều công đoạn, thậm chí phải mất đến 3 năm mới có thể hoàn thành. Đặc biệt, trong khuôn viên triều đình còn có riêng một nhà may chuyên dụng để may y phục cho nhà vua và hoàng tộc.

Thời Trần ở nước ta gọi vua là gì?

Thời phong kiến, bề tôi thường gọi vua là “bệ hạ”, nhưng thời Lý, Trần ở nước ta có những quy định cách xưng hô với nhà vua khác thường.

Đại Việt sử ký toàn thư viết: Năm Thiên Thành thứ 7 (1034), đời Lý Thái Tông, nhà vua xuống chiếu cho các quan khi có việc ở trước mặt vua thì gọi vua là "triều đình".

Sử thần Lê Văn Hưu bình luận rằng: “Thiên tử tự xưng là ‘trẫm’, là ‘dư nhất nhân’. Bề tôi gọi vua là ‘bệ hạ’, chỉ chỗ thiên tử ở là triều đình, chỉ chỗ chính lệnh ban ra là triều sảnh, từ xưa không thay đổi xưng hô. Nay Lý Thái Tông lại bảo các quan gọi mình là ‘triều đình’, sau Lý Thánh Tông lại tự xưng là ‘vạn thặng’, Lý Cao Tông bảo mọi người gọi mình là Phật, đều không theo phép ở đâu, mà là thích khoe khoang”.

Cuộc sống “đội vợ lên đầu” của phò mã TQ thời phong kiến

(Kiến Thức) - Thay vì tận hưởng cuộc sống quyền quý sau khi cưới công chúa, phò mã Trung Quốc thời phong kiến phải tuân thủ vô số quy định lạ lùng. Trong số này có việc phò mã muốn gần gũi vợ thì phải được nhũ mẫu của công chúa đồng ý.

Cuoc song “doi vo len dau” cua pho ma TQ thoi phong kien
Đối với nhiều người, phò mã Trung Quốc thời phong kiến là những người có cuộc sống giàu sang, phú quý nhờ cưới được công chúa - con gái của vua. Từ đây, phò mã sẽ có thể thăng quan tiến chức nhanh và trở thành người có địa vị cao trong hoàng cung. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới