Nhờ một bài thơ mà được vua ân xá án “cấm thi suốt đời”

Là con của một danh sĩ có tiếng, nhưng bài thi của Nguyễn Văn Giao phạm trường quy nên bị án "chung thân bất đắc ứng thí" – cấm thi suốt đời.

Tuy vậy, sau 18 năm tưởng như đã hết cơ hội lều chõng, thì nhờ một bài thơ "Con cu gáy" mà Nguyễn Văn Giao được vua Tự Đức ban lệnh ân xá. Cơ hội đến, nhân tài trổ bút đỗ luôn Giải nguyên trường Nghệ, đoạt Tam khôi với danh vị Thám hoa.

"Con cu gáy" xóa án tích

Nguyễn Văn Giao (1811 – 1863), hiệu là Quất Lâm, tự Đạm Như, người làng Trung Cần, tổng Nam Hoa, huyện Thanh Chương, phủ Anh Sơn (nay thuộc xã Trung Phúc Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Nho mot bai tho ma duoc vua an xa an “cam thi suot doi”

Đình Trung Cần – nơi gắn bó với Thám hoa Nguyễn Văn Giao.

Thân phụ ông là Nguyễn Danh Học, một thầy thuốc và thầy địa lý, từng làm quan trong Trấn ty triều Gia Long, sang triều Minh Mạng. Nghỉ hưu, ông về nhà dạy con cháu học và đọc sách thánh hiền, được triều đình phong hàm Lục phẩm Hàn lâm viện Trước tác.

Thân mẫu là bà Trần Thị Khoan, người Thịnh Quả, được triều đình tặng hiệu “Quốc nhân vinh” và “Lục phẩm an nhân”. Anh trai ông là Nguyễn Hữu Dực (còn gọi Trọng Dực), đậu Cử nhân năm 1825, làm quan đến Ngự sử đài, cũng là một danh sĩ có tiếng đương thời.

Nguyễn Văn Giao đỗ Tú tài năm Tân Mão Minh Mạng thứ 12 (1831). Năm Giáp Ngọ Minh Mạng thứ 15 (1834), đỗ Cử nhân nhưng do cuối quyển có chữ viết phạm trường quy nên xét lại không chỉ bị đánh hỏng, mà còn bị án “chung thân bất đắc ứng thí” – cấm thi suốt đời.

Trong suốt 18 năm dằng dặc sau đó, ông về quê dạy học. Số sĩ tử theo học rất đông, nhiều người đỗ đạt thành danh. Tương truyền trong thời gian này, ông sáng tác nhiều thơ văn, trong đó có bài thơ Nôm “Con cu gáy” viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt: “Hay gù, hay gáy lại hay bay/ Lỡ bước sa cơ đến nỗi này/ Xin chúa thả lồng cho thử sức/ Rồi đây bay bổng chín tầng mây”.

Vua Tự Đức vốn yêu thơ, lại là thi sĩ đích thực nên khi nghe bài thơ này, đoán có sự uẩn khúc bên trong. Vua ban lệnh ân xá hủy bỏ án “chung thân bất đắc ứng thí” cho Nguyễn Văn Giao.

Năm Nhâm Tý niên hiệu Tự Đức thứ 5 (1852), Nguyễn Văn Giao tiếp tục lều chõng đi thi, hoàn thành ước nguyện khoa cử. Trong khoa thi này, ông đỗ Giải nguyên trường Nghệ An. Năm sau, dự thi hội khoa Quý Sửu, niên hiệu Tự Đức năm thứ 6 (1853), đỗ Hội nguyên. Vào thi đình, ông đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khi đã 42 tuổi.

Nho mot bai tho ma duoc vua an xa an “cam thi suot doi”-Hinh-2

Nhờ bài thơ “Con cu gáy”, Nguyễn Văn Giao được đi thi và đỗ Thám hoa năm 1853.

Một khoa thi, hai Thám hoa

Trong khoa thi này, một số sử liệu cho biết có đến hai Thám hoa, không có Trạng nguyên hay Bảng nhãn. Người cùng đỗ Thám hoa với Nguyễn Văn Giao là Nguyễn Đức Đạt, người làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần (nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Đối chiếu với bản chữ hán tại Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Quý Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853), thấy ghi: Ban đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (2 người). Trong đó, Nguyễn Đức Đạt xếp trên Nguyễn Văn Giao. Khoa thi này lấy tất cả 7 người, ngoài 2 Thám hoa, có Lê Tuấn đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và 4 người khác đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Sau khi đỗ Thám hoa, Nguyễn Văn Giao được bổ làm Hàn lâm viện Trước tác, nhận chức vụ Hành tẩu ở Nội các. Tháng 8 năm Ất Sửu (1855), được thăng thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm Mậu Ngọ (1858), ông được thăng nhiệm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm chức Hành tẩu Nội các.

Tháng 6 năm sau ông được thăng thực thụ Thị giảng học sĩ. Tháng 1 năm Nhâm Tuất (1862), thăng Thị độc học sĩ vẫn kiêm chức Tham biện Nội các.

Giai thoại hiện còn lưu truyền ở làng Trung Cần quê hương ông kể rằng, Thám hoa Nguyễn Văn Giao có tài ứng biến phi thường, xuất khẩu thành thơ. Sau khi vinh quy bái tổ, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt đến thăm nhà Nguyễn Văn Giao, thấy nhà ông bạn đồng khoa chỗ nào cũng có đậu (đúng mùa thu hoạch đậu) liền ra vế đối:

“Trong nhà đậu, ngoài sân đậu, cha thi đậu, con thi đậu. Thi vân: Đa đậu thử chi vi giã”. Nguyễn Văn Giao trông ra hàng rào cây dâm bụt đang trổ nhiều hoa, liền đối: “Trên cây hoa, dưới gốc hoa, Bác vinh hoa, tôi thám hoa. Thi viết: Trùng hoa bất diệc nghi hồ”.

Nho mot bai tho ma duoc vua an xa an “cam thi suot doi”-Hinh-3

Bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853) ghi 2 Thám hoa là Nguyễn Văn Giao và Nguyễn Đức Đạt.

Cấm thi vẫn phải học

Tại nhà thờ Thám hoa Nguyễn Văn Giao hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Bản sắc phong khảm trên gỗ tếch phủ nhũ vàng, tấm bia đá xanh nhỏ và 2 tấm bia lớn… Trong ban thờ còn có mũ cánh chuồn vua ban cho ông bằng gỗ dổi, được khắc tạo rất công phu.

Dù lịch sử không ghi chép nhiều về hành trạng quan trường của Thám hoa Nguyễn Văn Giao. Tuy nhiên, sự nghiệp văn chương của ông lại rất lẫy lừng, để lại số lượng tác phẩm đồ sộ. Hiện, một số trước tác của ông đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trong số đó phải kể đến: Bắc sử lịch đại văn sách, Phụng tương vũ lược ẩn dật thần tiên liệt nữ thưởng lãm các sách soạn thành thi tập, Quất Lâm di thảo (3 bản), Sử lâm kỉ yếu, Khâm Định vịnh sử phú, Nguyễn Thám hoa Đạm Như phủ sử luận.

Tuy tác phẩm có nhiều, nhưng theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm - thì hầu như chưa được khai thác, giới thiệu. Trong đó có tác phẩm “Đạm Như thi thảo” dày đến 78 trang. Chữ chép tay, nhiều chữ đá thảo, trang 8 dòng, mỗi dòng trung bình 27 đến 30 chữ. Tập thơ được làm theo nhiều thể loại như thất ngôn, ngũ ngôn, ngũ ngôn cổ phong, thất ngôn cổ phong, có bài ngũ ngôn cổ phong dài đến trăm vần.

Cũng như tên đặt cho tập thơ “Đạm Như thi thảo”, ẩn đằng sau những cảm xúc với thiên nhiên, là tình yêu quê hương đất nước, tình cảm với cha mẹ, anh em, tình vợ chồng, tình bè bạn sâu sắc và nồng đượm mà Thám hoa Nguyễn Văn Giao muốn truyền lại cho hậu thế.

Là người ham đọc sách, vậy nên đêm đông dài đã trở thành món quà quý giá đối với một nhà khoa bảng. Trong bài “Đông dạ họa môn nhân trình chính nguyên vận” (Đêm đông họa theo vần bài thơ của học trò đưa xin chỉ giáo), ông đã thốt lên: “Tối ái tiêu trường kham tá độc/ Tam đông văn sử tức tương như” (Thích nhất có đêm dài tha hồ đọc sách/ Ba tháng mùa đông cũng là ba tháng cùng văn sử).

Nho mot bai tho ma duoc vua an xa an “cam thi suot doi”-Hinh-4

Bia đá cổ tại đình Trung Cần – quê hương Thám hoa Nguyễn Văn Giao.

Không chỉ là một Thám hoa lừng lẫy tiếng thơm, Nguyễn Văn Giao còn là một người đề cao giá trị tình cảm gia đình. Ông nổi tiếng là người con rất mực hiếu thảo, dẫu biết công danh như phù vân nhưng vẫn chăm chỉ học hành để an ủi cha mẹ.

Trong bài “Hương thí tiểu trúng thư trình hữu nhân” (Đậu thi hương viết thư gửi bạn): “Thế sự an năng tận như ý/ Quân tử bất dục đa thượng nhân/ Tối hạnh thử thân tài nhược quán/ Dĩ thao nhất đệ ủy ngô thân” (Sự đời đâu có thể hoàn toàn được như ý/ Người quân tử đâu có muốn trên nhiều người/ Chỉ vinh dự là tấm thân mới lớn này/ Đã giành được một giải để an ủi bố mẹ).

Thám hoa Nguyễn Văn Giao cũng khẳng định: “Giao tận cửu châu tài tuấn sĩ/ Bất như cốt nhục hữu thâm ân” (Làm bạn với tất thảy những người tài ba lỗi lạc trong thiên hạ/ Cũng không đâu bằng tình cốt nhục thâm ân).

Nho mot bai tho ma duoc vua an xa an “cam thi suot doi”-Hinh-5

Bị án “chung thân bất đắc ứng thí”, 18 năm sau Nguyễn Văn Giao được ân xá tiếp tục lều chõng. Ảnh minh họa.

Chí lớn của Nguyễn Văn Giao – ngay cả khi bị án “cấm thi suốt đời” vẫn chú tâm vào việc học. Ông khẳng định “học vô tha” - vốn là lời Mạnh Tử nói trong câu “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ”, nghĩa là “Con đường học vấn chẳng phải là cái gì khác, chỉ là con đường dẫn dắt chúng ta đi tìm cái bản tâm vốn thiện đã bị đánh mất mà thôi”.

Với Thám hoa Nguyễn Văn Giao, người quân tử phải: “Miễn chi tai! Quân tử chi học đốc thực nhi quang hoa” (Phải gắng lên! Sự học của người quân tử là phải thực chất thì mới chói sáng).

Tráng chí còn thể hiện ở việc ngày ngày tự xét mình ba điều: Làm việc gì cho ai đã hết lòng chưa? Kết giao với bạn bè có giữ chữ tín hay không? Đạo lý thầy dạy cho mình có thực hành không? Và háo đức như háo sắc, lo đạo chẳng lo nghèo.

Chính sự hiếu học, xem học là một nghề đã làm cho dòng họ Nguyễn Văn ở làng Trung Cần tự hào “tam thế kế đại khoa” (3 đời đỗ đại khoa). Khi đang là Thị độc học sĩ kiêm chức Tham biện Nội các thì Thám hoa Nguyễn Văn Giao qua đời năm 1863.

Thi hài ông được đưa về quê an táng, triều đình truy tặng ông hàm Quan lộc Tự khanh, tòng Tam phẩm.

Giai thoại lạ kỳ về vị Thám hoa trẻ tuổi nhất lịch sử VN

(Kiến Thức) - Là vị Thám hoa thứ 2 trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam nhưng lại là vị Thám hoa trẻ tuổi nhất, tuy nhiên tư liệu và thông tin về Đặng Ma La truyền lại không nhiều vì thế ít ai biết rõ về nhân vật đặc biệt này.

Giai thoại lạ về chuyện ra đời

Vua chúa Việt tổ chức thi tuyển nhân tài cầu kỳ thế nào?

(Kiến Thức) - Để phát hiện và sử dụng nhân tài, hai phương thức chính được các triều đình phong kiến Việt Nam là tiến cử hoặc bảo cử và thi cử.

Mùa hè cũng là mùa tuyển sinh trên khắp cả nước. Không khí ôn luyện, dốc sức cho thi cử đang rất "nóng". Cùng Kiến Thức quay ngược thời gian, tìm hiểu quy trình thi cử thời phong kiến Việt Nam, xem vua chúa xưa tiến hành tuyển chọn nhân tài tương lai cho đất nước thế nào.

Tuyển chọn quan lại theo cách nào?
Thời phong kiến, ngôi vua là cha truyền con nối nên dẫn đến trong việc tuyển quan lại có thể lệ tập ấm, tức là các con cái quan lại thì có suất để được bổ nhiệm làm quan, mà không phải qua thi cử. Học giả Đào Duy Anh, trong cuốn "Việt Nam văn hóa sử cương", đã tóm tắt về chế độ tập ấm như sau: Các triều Lý, Trần, Lê vẫn có lệ thừa ấm, hễ con các quan thì lại được bổ làm quan. Ở triều Lê vẫn có lệ thừa ấm, có khoa nhiệm tử, cốt lấy con các quan mà bổ dụng.

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Cần tĩnh tâm xây dựng một nền đại học tử tế

“Mục tiêu cơ bản là tĩnh tâm và kiên định xây dựng một nền đại học tử tế, trong đó tiến sĩ phải ra tiến sĩ” - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng nói.

- Thưa GS Nguyễn Hữu Việt Hưng, theo ông những bất cập nổi bật trong việc đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay là gì?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Nền giáo dục đại học nước ta còn chạy theo những trào lưu nhất thời, chưa bình tâm, an nhiên, tự tại theo đuổi những việc của chính ta.

Nhiều thầy hướng dẫn và nghiên cứu sinh (NCS) trong một số ngành còn chưa biết thế nào là một luận án tiến sĩ. Những đầu đề luận án mà dân mạng cười nhạo đều giống những báo cáo hành chính, không có sáng tạo gì. Những người thầy và NCS như thế đã mất hết lòng tự trọng, mất khả năng lao động tử tế.

Một lý do quan trọng là việc chúng ta đã dịch Doctor của phương tây thành Tiến sĩ. (Nghe cứ như đùa.) Doctor là học vị cao nhất mà các đại học phương tây cấp cho người lao động sáng tạo, có phát hiện mới, chưa từng được biết, về một lĩnh vực nào đó. Còn Tiến sĩ ở những nước phương đông theo Nho giáo là học vị cao nhất mà nhà nước phong kiến cấp cho những người hiểu biết, văn hay chữ tốt, có thể làm quân sư hay thư lại trong hệ thống hành chính quốc gia. Doctor và Tiến sĩ chỉ có một điểm chung, chúng cùng là học vị cao nhất của xã hội sản sinh ra chúng. Một bên, Doctor đòi hỏi sáng tạo, không đòi hỏi biết nhiều, bên kia Tiến sĩ không cần sáng tạo, mà cần hiểu biết rộng. Sự vênh nhau như thế là sai lầm chết người trong hệ thống đào tạo tiến sĩ hiện nay.

Trong lịch sử nước ta, có thời (như thời Nguyễn Trãi), Tiến sĩ từng được gọi là Thái học sinh (Học sinh cỡ lớn/cao cấp). Ở phương Tây, học vị tiến sĩ đánh dấu điểm khởi đầu sự nghiệp khoa học. Ở phương Đông, học vị tiến sĩ thường đánh dấu điểm kết thúc quãng đời đi học.

Nếu chúng ta vẫn dịch Doctor thành Tiến sĩ (hàm nghĩa có sáng tạo), thì văn bằng của người hiểu biết rộng, chỉ cần học nhiều chứ không đòi hỏi sáng tạo, nên được gọi khác đi, chẳng hạn là Học sĩ. Như thế, sẽ có hai văn bằng cao, không so sánh được với nhau, là Tiến sĩ (đòi hỏi sáng tạo) và Học sĩ (đòi hỏi học rộng, không cần sáng tạo). Những luận án tiến sĩ mà thiên hạ vẫn cười trên mạng gần đây nên được hiểu là luận án Học sĩ.

- Theo ông, làm thế nào để việc học tiến sĩ quay về đúng ý nghĩa của nó, rằng đây là nhu cầu tự thân của mỗi người?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Việc đào tạo tiến sĩ vừa là đòi hỏi tự thân của người đi học, vừa là nhu cầu của xã hội.

Chỉ các định chế khoa học (các đại học, các viện nghiên cứu) mới cần các tiến sĩ. Những người lãnh đạo/quản lý xã hội, nếu đòi hỏi bằng cấp, thì đó phải là bằng Học sĩ (chỉ là một cấp học, không đòi hỏi sáng tạo).

"Những đầu đề luận án mà dân mạng cười nhạo đều giống những báo cáo hành chính, không có sáng tạo gì. Những người thầy và NCS như thế đã mất hết lòng tự trọng, mất khả năng lao động tử tế" - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng.

Nếu chúng ta chưa đặt ra được một học vị mới (Học sĩ) chỉ yêu cầu học rộng, không yêu cầu sáng tạo, thì hãy tách riêng việc có bằng tiến sĩ với việc làm lãnh đạo bằng cách bãi bỏ ưu tiên chọn lãnh đạo có bằng tiến sĩ. Điều này rất then chốt.

Rất nhiều người vội vã kiếm cho được học vị tiến sĩ, để mau chóng trở thành (hay củng cố vị trí) lãnh đạo. Không ít người trong số đó đã tham nhũng, mà nhanh giàu nhất hiện nay là tham nhũng đất đai. Nhiều người như vậy đã phải ngồi nhà đá.

Vậy nên, một trong những cách cứu vãn sự đào tạo tiến sĩ là hợp lý hoá chính sách đất đai. Ngoài ra, muốn để cho những lỗ hổng về chính sách không làm hỏng sự đào tạo tiến sĩ, thì phải cương quyết bãi bỏ ưu tiên chọn lãnh đạo có bằng tiến sĩ.

- Còn để dẹp nạn tiến sĩ “lởm”, cần thay đổi và thực hiện những điều gì thưa ông?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Nếu việc có bằng tiến sĩ không được ưu tiên trong tuyển chọn lãnh đạo, thì người ta không chen nhau làm tiến sĩ nữa. Nhu cầu làm luận án tiến sĩ giảm. Chất lượng tiến sĩ khi đó là chuyện riêng của giới học thuật.

Việc người làm lãnh đạo có thực sự cần văn bằng Học sĩ (chỉ cần học rộng biết nhiều) hay không là vấn đề do xã hội quyết định. Nhớ rằng, trên thế giới chỉ có bằng Thạc sĩ (Master) không đòi hỏi kết quả nghiên cứu mới, còn bằng Doctor chắc chắn phải có. Nhằm mục tiêu hội nhập quốc tế, sự đào tạo tiến sĩ cần học theo các nước có nền khoa học tiên tiến. Tuyệt nhiên không “vẽ rắn thêm chân”. Chẳng hạn, không thể đòi hỏi người dự tuyển NCS phải có bài báo khoa học. Chuyện này chỉ khuyến khích thị trường mua bán bài báo. Hội đồng bảo vệ luận án là do thầy hướng dẫn mở và mời, thầy hướng dẫn đương nhiên là Chủ tịch Hội đồng. Việc mời ai tham gia hội đồng là việc của thầy hướng dẫn. Chấm dứt việc không cho người hướng dẫn là một thành viên của hội đồng.

Để cho văn bằng tiến sĩ của ta cũng xứng với văn bằng các nước tiên tiến, cần có công bố quốc tế. Khi mà cả thầy hướng dẫn lẫn NCS trong một số chuyên ngành không còn lòng tự trọng, (cũng có thể họ chưa từng biết một luận án tiến sĩ phải thế nào), thì việc bắt buộc có công bố quốc tế hiển nhiên là một lối thoát. Do các yếu tố lịch sử, do sự cống hiến của một số yếu nhân, một số ngành ở nước ta, chẳng hạn Toán học, đã có công bố quốc tế trong mỗi luận án tiến sĩ.

Có người nói KHXH rất khó công bố quốc tế. Họ viện dẫn đặc thù của chuyên ngành. Có đúng thế không? Thật ra, các nghiên cứu nghiêm túc về CNXH được chào đón tại nhiều tạp chí. Gần đây, công bố quốc tế trong KHXH tăng một cách ấn tượng.

"Để cho văn bằng tiến sĩ của ta cũng xứng với văn bằng các nước tiên tiến, cần có công bố quốc tế" - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng

Nếu thế hệ trước công bố quốc tế tốt, thì họ sẽ truyền thụ được chuyện đó cho các thế hệ sau.

Việc đòi hỏi luận án tiến sĩ phải có công bố quốc tế có thể đi ngược với việc ở các nước hàng đầu về khoa học (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật...), có nhiều NCS khi bảo vệ tiến sĩ chưa có bài báo khoa học nào. Nếu sau này người ấy không công bố được (chẳng hạn vì phát hiện ra luận án sai) thì sao? Thì uy tín khoa học của thầy hướng dẫn bị sứt mẻ, và tiến sĩ mới ấy không bao giờ xin được một vị trí khoa học (giảng viên hay nghiên cứu viên). Nếu thầy hướng dẫn không ngại uy tín bị sứt mẻ, vì không còn lòng tự trọng, và tiến sĩ mới đã có nơi làm việc trước khi thành tiến sĩ, thì sao? Nếu người ta quyết xé rào, và nếu họ lại được các đồng nghiệp trong hội đồng ủng hộ thì... không rào cản pháp luật nào ngăn được họ. Khi đó cần đến sự răn đe của đạo đức và tôn giáo. Nếu cả đạo đức và tôn giáo cũng vô nghĩa với họ thì sao? Khi đó, rất có thể chúng ta phải ... làm lại từ đầu.

Mục tiêu cơ bản là tĩnh tâm và kiên định xây dựng một nền đại học tử tế, trong đó tiến sĩ phải ra tiến sĩ. Những phát kiến, đóng góp của mỗi luận án tiến sĩ phải có tính nguyên thủy/độc đáo và có ý nghĩa.

Mọi điều luật đều do con người đặt ra. Đặt ra được thì họ cũng lách qua được. Cho nên những việc quan trọng phải được trao vào tay những người có lòng tự trọng. Sự đào tạo tiến sĩ chỉ diễn ra tử tế trong một xã hội căn bản là sự tử tế.

Đọc nhiều nhất

Tin mới