Không quân Việt Nam ở chiến trường Campuchia (1): dùng “chim sắt” Mỹ

(Kiến Thức) - Trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979 và đầu cuộc chiến giúp đỡ nhân dân Campuchia, Không quân Việt Nam chủ yếu sử dụng máy bay Mỹ để yểm trợ.

* Bài viết có sử dụng tư liệu từ cuốn Lịch sử Không quân Nhân dân Việt nam và Lịch sử dẫn đường Không quân.
Sau ngày thống nhất đất nước, Quân chủng Phòng không - Không quân nhanh chóng thu hồi chiến lợi phẩm để bảo vệ Tổ quốc. Tính đến cuối tháng 5/1975, bộ đội ta đã thu hồi được 877 máy bay các loại (bao gồm nhiều chiếc chiến đấu cơ F-5E và A-37) từ không quân quân đội Sài Gòn. Với số máy bay thu được, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập một loạt trung đoàn không quân mới.
Ngày 30/5/1975, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn Tiêm kích 935 sử dụng máy bay F-5A/E và Trung đoàn Cường kích 937 dùng A-37. Hai trung đoàn có nhiệm vụ tác chiến phòng không, tiến công đường không, giành và giữ quyền làm chủ bầu trời, chi viện bảo vệ lực lượng binh chủng hợp thành.
Tiêm kích F-5 do hãng Northrop (Mỹ) sản xuất, được quân ta thu giữ sau 1975 và sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979.
 Tiêm kích F-5 do hãng Northrop (Mỹ) sản xuất, được quân ta thu giữ sau 1975 và sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979.
Tiếp đó, ngày 5/7/1975, Trung đoàn Vận tải 918 được thành lập với trang bị máy bay C-130, C-47 và C-119. Đơn vị làm nhiệm vụ vận tải và có thể tham gia tiến công đường không khi cần.
Ngày 20/7/1975, Trung đoàn trinh sát - vận tải 917 trang bị trực thăng UH-1, CH-47 và máy bay trinh sát L-19, U-17 ra đời. Đoàn 917 có nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực, trinh sát đường không, chỉ thị mục tiêu, đổ bộ vận chuyển/vận tải đường không, cấp cứu.
Trên cơ sở các trung đoàn mới, ngày 15/9/1972, Sư đoàn Không quân 372 được thành lập với biên chế 4 đơn vị trên. Và chính những đơn vị này trong chiến bảo vệ biên giới Tây Nam 1979 trước quân xâm lược Khơ Me đỏ và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng sau này, các đơn vị trang bị “toàn vũ khí Made in USA” trở thành cánh tay đắc lực yểm trợ tốt nhất, hiệu quả nhất cho đơn vị mặt đất.
Lực lượng chi viện đắc lực
Bước vào chiến dịch phản công biên giới Tây Nam 1979, Bộ Quốc phòng quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng không quân tham chiến phối hợp với bộ binh để nhanh chóng tiêu diệt địch làm chủ chiến trường.
Máy bay cường kích A-37 (hãng Cessna Mỹ sản xuất) đã nhiều lần dội bom, bắn rocket tiêu diệt mục tiêu quân Khơ Me đỏ.
 Máy bay cường kích A-37 (hãng Cessna Mỹ sản xuất) đã nhiều lần dội bom, bắn rocket tiêu diệt mục tiêu quân Khơ Me đỏ.
Sư đoàn Không quân 372 được Quân chủng Không quân chọn làm nòng cốt trong chiến dịch này. Để giúp sư 372 hoàn thành tốt nhiệm vụ, Quân chủng có điều thêm một số lực lượng từ các đơn vị bạn đến phối thuộc. Ngày 18/12/1978, một phi đội tiêm kích MiG-21 có đủ trình độ đánh địch cả ngày lẫn đêm của Trung đoàn 921 Anh hùng đã từ Nội Bài vào Biên Hòa và trực chiến từ ngày 25/12. Ngoài ra còn có 4 trực thăng vận tải hạng nặng Mi-6 của Trung đoàn 916 và một số máy bay vận tải C-130, C-119 và EC-47 của Trung đoàn 918 cũng được tăng cường cho Sư đoàn 372.
Căn cứ vào ý định của Quân chủng, Sư đoàn 372 thành lập 2 sở chỉ huy phía trước là F-1 đặt tại Bến Cầu Tây Ninh và F-2 đặt tại Châu đốc An Giang cùng 5 tổ tham mưu chiến dịch (tham mưu không quân) theo các hướng tác chiến của các quân khu, quân đoàn và quân chủng Hải quân.
Về hệ thống sân bay: Biên Hòa được chọn làm căn cứ trung tâm, 2 sân bay trọng điểm là Cần Thơ và Tân Sơn Nhất, các sân bay phía trước là Dương Minh Châu, Trảng Lớn, Thất Sơn, Phú Quốc, Plei-Ku… Tất cả đều được củng cố nhằm bảo đảm cho tất cả các loại máy bay và trực thăng hoạt động thật hiệu quả đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ trong chiến dịch.
Ngày 22/12/1978, trên toàn tuyến biên giới, quân ta bắt đầu phản công đánh vào các đơn vị địch, không quân cũng bước vào cuộc chiến đấu hiệp đồng với bộ binh. 15h15 phút ngày 23/12, 9 chiếc tiêm kích F-5 mang bom của Trung đoàn 935 chia làm 3 tốp bay lên hướng tây-tây bắc Tây Ninh chi viện cho Quân đoàn 4 đang bao vây chia cắt 3 sư đoàn địch tại rừng Hòa Hội. Các tốp F-5 đã đánh bom trúng sở chỉ huy sư đoàn 703 và trận địa pháo của quân Pol Pot tại khu vực Hòa Thanh (nam Hòa Hội 7 km).
Phi đội tiêm kích F-5 Không quân Nhân dân Việt Nam xuất kích.
 Phi đội tiêm kích F-5 Không quân Nhân dân Việt Nam xuất kích.
Ở hướng Quân khu 5, Quân đoàn 2 và hướng Hải quân cũng nhận được sự chi viện đắc lực của Không quân từ ngày mở màn đến lúc kết thúc chiến dịch. Tính từ 22/12/1978 đến ngày 17/1/1979 là ngày quân ta và lực lượng cách mạng Campuchia giành toàn thắng trên tất cả các hướng, không quân đã hoạt động 54 đợt, đánh 99 trận với 627 lần chiếc. Trong đó có 352 lần trực tiếp đánh, 147 lần chiếc MiG-17, MiG-19, MiG-21 và F-5 làm nhiệm vụ tiêm kích phòng không, 67 lần chiếc trinh sát, chỉ thị mục tiêu; 4 lần chiếc C-130 chụp ảnh và 57 lần chiếc trực thăng bay sẵn sàng cấp cứu.
Biến vận tải cơ Mỹ thành oanh tạc cơ
Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân ta chỉ có máy bay tiêm kích hạng nhẹ làm nhiệm vụ phòng không. Sau năm 1975, trong những máy bay chiến lợi phẩm thu được của quân đội Sài Gòn cũng chỉ có một số máy bay ném bom hạng nhẹ A-37. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực trong khả năng hạn chế, không quân ta đã sáng tạo cải tiến các loại máy bay C-130, C-119K để mang bom, đạn cối để tấn công mặt đất chi viện hỏa lực cho bộ binh. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, các loại máy bay này đã có những đóng góp rất tích cực.
Ngày 28/12/1978, để chi viện hỏa lực cho lực lượng Quân khu 5, Sư đoàn 372 đã cho sử dụng các máy bay C-130 và C-119K tập kích vào hậu phương của các sư đoàn quân Pol Pot ở đông bắc Campuchia.
Các cán bộ kỹ thuật Không quân Nhân dân Việt Nam thậm chí còn biến máy bay vận tải C-130 thành máy bay ném bom.
 Các cán bộ kỹ thuật Không quân Nhân dân Việt Nam thậm chí còn biến máy bay vận tải C-130 thành máy bay ném bom.
Sáng 28/12/1978, lực lượng kỹ thuật của Trung đoàn 918 tập trung lắp bom MK-81 lên C-130 và lắp đạn cối lên C-119K. Trong khi đó, đội ngũ dẫn đường trên không của các tổ bay tiến hành rà soát lại số liệu đường bay và kiểm tra các thiết bị. Mọi công tác bảo đảm đều hoàn thành đúng thời gian quy định, chỉ chờ lệnh là xuất kích đánh địch.
Lúc 11h20, sau khi 2 máy bay U-17 bay lên trinh sát khu vực phía tây đường 19 và đường 94 có kết quả, Sở chỉ huy sư đoàn 372 ra lệnh công kích. Hai chiếc C-130 do Tiêu Khánh nha và Phan Hữu Hùng làm lái chính cất cánh từ Biên Hòa bay lên hướng Plei-Ku. Sau đó nửa giờ, biên đội tiêm kích F-5 cũng cất cánh lúc 11h49 để yểm hộ cho C-130.
Cũng lúc này, tại Phù Cát, 4 MiG-19 cất cánh và được dẫn vào khu vực cách Plei-Ku 40 km về phía tây bắc yểm hộ cho C-130. Ở tại sân bay Plei-Ku, Trung đoàn 917 cũng cho 2 trực thăng UH-1 bay theo hướng tây vào khu vực cấp cứu sẵn sàng ứng cứu phi công nếu máy bay bị hỏa lực phòng không đối phương bắn.
Hai chiếc C-130 từ Biên Hòa bay lên Plei-Ku thì vòng trái rồi bay qua ngã ba sông ở khu vực Kampadou cách 65km về phía tây-tây nam Plei-ku. Một chiếc vào đánh mục tiêu K4 (Vi ra chây) một chiếc đánh K3 (Bung lung). Phát hiện mục tiêu, mỗi tổ bay ném hai loạt, mỗi loạt ném một nửa số bom mang theo.
Loạt bom đầu tiên của tổ bay thứ nhất rơi vào mép bên trái khu A của mục tiêu còn loạt sau rơi trúng khu B của K4. Tổ bay thứ 2 ném loạt đầu bị lệch trái 500m so với mục tiêu loạt phải lệch phải 300m. Cả hai tổ bay thoát ly mục tiêu bay về hạ cánh an toàn tại sân bay Biên Hòa.
Sau C-130, C-119K được lệnh vào công kích nhưng do sự cố kỹ thuật, chỉ có 1 chiếc cất cánh được. C-119K được 2 chiếc MiG-19 cất cánh từ sân bay Biên Hòa lúc 12h40 yểm hộ và sau đó khoảng 1h lại có F-5 bay lên yểm hộ trên đường rút.
Máy bay vận tải C-119K cũng được cải tiến mang đạn cối 82mm "thả lửa" lên đầu quân xâm lược.
 Máy bay vận tải C-119K cũng được cải tiến mang đạn cối 82mm "thả lửa" lên đầu quân xâm lược.
C-119K nhận lệnh đánh vào mục tiêu K2 (Ba Kev) do lái chính Trần Văn Tuyên điều khiển. Đến khu vực quy định, nhận rõ mục tiêu, dẫn đường trên không Nguyễn Khắc Thọ lấy phần tử ngắm chuẩn bị thả đạn cối. Loạt thứ nhất, 60 quả đạn cối 82mm rơi đúng vào sở chỉ huy của sư đoàn 801 Pol Pot. Máy bay tiếp tục vòng lại ném loạt thứ hai. Lần này cả 72 quả đạn cối đều rơi vào khu vực K2.
Đúng lúc này lái chính cảm thấy trạng thái máy bay có biểu hiện bất thường. Tuy vậy anh vẫn bình tĩnh giữ chắc tay lái và điều khiển được máy bay về Plei ku hạ cánh an toàn. Các thợ máy kiểm tra phát hiện ra cánh thăng bằng ngang của máy bay bị biến dạng do thùng chứa các quả đạn va phải khi rời khỏi máy bay.
Sang ngày 29/12 hai chiếc C-130 lại tiếp tục đánh mục tiêu K3 lần thứ hai đồng thời 3 UH-1 vào đánh K2. Trong ngày 29, bộ đội Quân khu 5 đã làm chủ chiến trường, diệt và làm tan rã hai sư đoàn địch. Trong chiến công này có đóng góp quan trọng của lực lượng không quân.

Nhận diện dàn oanh tạc cơ “khủng” nhất thế giới (1)

(Kiến Thức) - Đứng đầu bảng trong những loại máy bay ném bom mạnh nhất thế giới đương nhiên là B-2 Mỹ và Tu-160 Nga.

Máy bay ném bom (hay gọi là oanh tạc cơ) có một vai trò quan trọng trong chiến tranh hiện đại, chúng thường được sử dụng cho các nhiệm vụ chiến lược hay đơn thuần là hỗ trợ hỏa lực từ trên không. Hiện nay, còn rất ít quốc gia sử dụng cỗ máy ném bom khổng lồ trên không, chủ yếu là 2 cường quốc quân sự Nga – Mỹ.
 Máy bay ném bom (hay gọi là oanh tạc cơ) có một vai trò quan trọng trong chiến tranh hiện đại, chúng thường được sử dụng cho các nhiệm vụ chiến lược hay đơn thuần là hỗ trợ hỏa lực từ trên không. Hiện nay, còn rất ít quốc gia sử dụng cỗ máy ném bom khổng lồ trên không, chủ yếu là 2 cường quốc quân sự Nga – Mỹ.

Sức mạnh vũ khí “khủng”... Quân đội ta thu được sau 1975

(Kiến Thức) - Một số phương tiện chiến tranh ta thu được từ kho vũ khí Quân đội Sài Gòn được đánh giá cao về tính năng, sức mạnh hỏa lực.

Trong số hàng trăm loại vũ khí (súng ống, pháo, xe tăng, máy bay, tàu chiến) thu được sau 1975, có nhiều thiết kế vũ khí được đánh giá khá cao về tính năng, hỏa lực, cơ động. Không ít trong số này được ta sử dụng rất thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thậm chí còn hoạt động cho tới ngày nay. Trong ảnh là một chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực M48 (Mỹ chế tạo) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đây là một trong 2 loại xe tăng ta thu giữ và sử dụng. Ảnh: Hoàng Lê
Trong số hàng trăm loại vũ khí (súng ống, pháo, xe tăng, máy bay, tàu chiến) thu được sau 1975, có nhiều thiết kế vũ khí được đánh giá khá cao về tính năng, hỏa lực, cơ động. Không ít trong số này được ta sử dụng rất thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thậm chí còn hoạt động cho tới ngày nay. Trong ảnh là một chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực M48 (Mỹ chế tạo) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đây là một trong 2 loại xe tăng ta thu giữ và sử dụng. Ảnh: Hoàng Lê

Trong ảnh là xe tăng M48 trên con đường ở thành phố Sài Gòn ngày 30/4. Trên xe có một số chiến sĩ quân giải phóng và binh lính VNCH giác ngộ, đi theo Cách mạng.
Trong ảnh là xe tăng M48  trên con đường ở thành phố Sài Gòn ngày 30/4. Trên xe có một số chiến sĩ quân giải phóng và binh lính VNCH giác ngộ, đi theo Cách mạng.

Sức mạnh của M48 Patton được đánh giá là tương đương với xe tăng T-54/55 của Liên Xô. M48 được trang bị pháo chính cỡ 90mm T54 và xe bọc giáp dày tới 120mm. Ảnh minh họa
Sức mạnh của M48 Patton được đánh giá là tương đương với xe tăng T-54/55 của Liên Xô. M48 được trang bị pháo chính cỡ 90mm T54  và xe bọc giáp dày tới 120mm. Ảnh minh họa

Xe bọc thép chở quân M113 cũng là loại vũ khí lục quân ta thu được rất nhiều (có nguồn cho rằng khoảng 500 chiếc). Đây là loại xe được đánh giá cao về tính cơ động, khả năng lội nước, chở quân, yểm trợ hỏa lực.
Xe bọc thép chở quân M113 cũng là loại vũ khí lục quân ta thu được rất nhiều (có nguồn cho rằng khoảng 500 chiếc). Đây là loại xe được đánh giá cao về tính cơ động, khả năng lội nước, chở quân, yểm trợ hỏa lực.

Chúng ta đã sử dụng rất hiệu quả M113 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và các chiến dịch giải phóng nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng Khmer Đỏ 1979. Trong quá trình sử dụng, ta đã tự cải tiến trang bị thêm pháo không giật DKZ để tăng hỏa lực yểm trợ bộ binh. Hiện nay, tuy gặp khá nhiều khó khăn trong tìm kiếm nguồn linh kiện thay thế, nhưng ta vẫn cố gắng duy trì bảo đảm chiến đấu cho M113.
Chúng ta đã sử dụng rất hiệu quả M113 trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và các chiến dịch giải phóng nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng Khmer Đỏ 1979. Trong quá trình sử dụng, ta đã tự cải tiến trang bị thêm pháo không giật DKZ để tăng hỏa lực yểm trợ bộ binh. Hiện nay, tuy gặp khá nhiều khó khăn trong tìm kiếm nguồn linh kiện thay thế, nhưng ta vẫn cố gắng duy trì bảo đảm chiến đấu cho M113.

Ta cũng thu giữ được số lượng lớn lựu pháo M101 105mm do Mỹ sản xuất sau 1975 và sử dụng cho tới tận ngày nay. Trong ảnh là cuộc diễn tập bắn đạn thật phòng thủ bờ biển của quân đội ta với pháo 105mm.
Ta cũng thu giữ được số lượng lớn lựu pháo M101 105mm do Mỹ sản xuất sau 1975 và sử dụng cho tới tận ngày nay. Trong ảnh là cuộc diễn tập bắn đạn thật phòng thủ bờ biển của quân đội ta với pháo 105mm.

Lựu pháo M101 105mm có thể đạt tầm bắn tới 11,2km.
Lựu pháo M101 105mm có thể đạt tầm bắn tới 11,2km.

Bên cạnh loại 105mm, ta cũng thu được lựu pháo M114 155mm có thể đạt tầm bắn tối đa 14,6km. Nguồn ảnh: GDVN
Bên cạnh loại 105mm, ta cũng thu được lựu pháo M114 155mm có thể đạt tầm bắn tối đa 14,6km. Nguồn ảnh: GDVN

Đặc biệt nhất, bộ đội ta thu giữ được một số lượng nhỏ siêu pháo tự hành hạng nặng M107 175mm mà Mỹ trang bị cho Quân đội Sài Gòn. Loại pháo này có tầm bắn xa tới 34km, xa hơn cả pháo M46 130mm của quân đội ta. Tuy nhiên, tốc độ bắn khá chậm chỉ 1-2 phát/phút. Trong ảnh là một khẩu M107 175mm trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: Hoàng Lê
Đặc biệt nhất, bộ đội ta thu giữ được một số lượng nhỏ siêu pháo tự hành hạng nặng M107 175mm mà Mỹ trang bị cho Quân đội Sài Gòn. Loại pháo này có tầm bắn xa tới 34km, xa hơn cả pháo M46 130mm của quân đội ta. Tuy nhiên, tốc độ bắn khá chậm chỉ 1-2 phát/phút. Trong ảnh là một khẩu M107 175mm trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: Hoàng Lê

Giá trị nhất trong kho vũ khí chiến lợi phẩm là một vài máy bay chiến đấu và vận tải đã tăng đáng kể sức mạnh Không quân Nhân dân Việt Nam sau 1975. Trong ảnh là tiêm kích hạng nhẹ F-5E (Mỹ sản xuất) biên chế trong không quân ta. Đây là loại tiêm kích phản lực siêu âm, một chỗ ngồi, trang bị 2 pháo 20mm ở mũi và 7 giá treo trên cánh mang 3,2 tấn vũ khí (tên lửa, bom, rocket).
Giá trị nhất trong kho vũ khí chiến lợi phẩm là một vài máy bay chiến đấu và vận tải đã tăng đáng kể sức mạnh Không quân Nhân dân Việt Nam sau 1975. Trong ảnh là tiêm kích hạng nhẹ F-5E (Mỹ sản xuất) biên chế trong không quân ta. Đây là loại tiêm kích phản lực siêu âm, một chỗ ngồi, trang bị 2 pháo 20mm ở mũi và 7 giá treo trên cánh mang 3,2 tấn vũ khí (tên lửa, bom, rocket).

Máy bay cường kích hạng nhẹ A-37 biên chế trong Không quân Nhân dân Việt Nam. A-37 có khả năng mang 1,2 tấn vũ khí (bom, rocket, tên lửa) trên 8 giá treo. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, không quân ta đã sử dụng rất thành công tiêm kích F-5E và A-37 với nhiệm vụ không kích mục tiêu mặt đất.
Máy bay cường kích hạng nhẹ A-37 biên chế trong Không quân Nhân dân Việt Nam. A-37 có khả năng mang 1,2 tấn vũ khí (bom, rocket, tên lửa) trên 8 giá treo. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, không quân ta đã sử dụng rất thành công tiêm kích F-5E và A-37 với nhiệm vụ không kích mục tiêu mặt đất.

Về lực lượng trực thăng, không quân ta ngoài những chiếc Mi-6/8 của Liên Xô cũng được bổ sung thêm vài chục chiếc trực thăng đa dụng UH-1 (Mỹ chế tạo) có thể vừa làm nhiệm vụ tải quân, tải thương vừa thực hiện yểm trợ hỏa lực (bằng súng máy và rocket).
Về lực lượng trực thăng, không quân ta ngoài những chiếc Mi-6/8 của Liên Xô cũng được bổ sung thêm vài chục chiếc trực thăng đa dụng UH-1 (Mỹ chế tạo) có thể vừa làm nhiệm vụ tải quân, tải thương vừa thực hiện yểm trợ hỏa lực (bằng súng máy và rocket).

Ngoài loại UH-1, không quân ta còn có sự phục vụ của 5 chiếc trực thăng vận tải hạng nặng CH-47 (Mỹ sản xuất). CH-47 có khả năng chở 55 lính hoặc 24 cáng cứu thương hoặc 12,7 tấn hàng hóa. Năng lực tải hàng của CH-47 còn vượt hơn cả trực thăng vận tải lớn nhất Liên Xô mà không quân ta trang bị, loại Mi-6. Trong ảnh là bộ đội ta đang đổ bộ từ chiếc CH-47 trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.
Ngoài loại UH-1, không quân ta còn có sự phục vụ của 5 chiếc trực thăng vận tải hạng nặng CH-47 (Mỹ sản xuất). CH-47 có khả năng chở 55 lính hoặc 24 cáng cứu thương hoặc 12,7 tấn hàng hóa. Năng lực tải hàng của CH-47 còn vượt hơn cả trực thăng vận tải lớn nhất Liên Xô mà không quân ta trang bị, loại Mi-6. Trong ảnh là bộ đội ta đang đổ bộ từ chiếc CH-47 trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

7 chiếc vận tải cơ hạng trung C-130 thu giữ được từ không quân Quân đội Sài Gòn được ta sử dụng thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Khi đó, C-130 được xem là loại máy bay vận tải lớn nhất của không quân ta, với tải trọng 20 tấn (có thể chở 64 lính dù hoặc 74 cáng cứu thương hoặc 2 xe bọc thép M113).
7 chiếc vận tải cơ hạng trung C-130 thu giữ được từ không quân Quân đội Sài Gòn được ta sử dụng thành công trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Khi đó, C-130 được xem là loại máy bay vận tải lớn nhất của không quân ta, với tải trọng 20 tấn (có thể chở 64 lính dù hoặc 74 cáng cứu thương hoặc 2 xe bọc thép M113).

Tàu vận tải đổ bộ lớp LST-491 (tàu HQ-505) thu giữ từ Hải quân Quân đội Sài Gòn đã góp phần bảo vệ vững chắc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đây được xem là loại tàu chiến lớn nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam vào thời điểm bấy giờ, với lượng giãn nước gần 4.000 tấn.
Tàu vận tải đổ bộ lớp LST-491 (tàu HQ-505) thu giữ từ Hải quân Quân đội Sài Gòn đã góp phần bảo vệ vững chắc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đây được xem là loại tàu chiến lớn nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam vào thời điểm bấy giờ, với lượng giãn nước gần 4.000 tấn.

“Kho” tăng, pháo đa quốc gia của VN trong chiến tranh (2)

Năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Nol (Campuchia), bộ đội ta đã thu được một xe tăng hạng nhẹ AMX-13-75 trong tình trạng pháo không có khóa nòng. Chiếc xe này nằm trong số 40 chiếc mà chính phủ Pháp viện trợ cho Campuchia năm 1971. AMX-13-75 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 10-40mm với kíp xe 3 người. Xe được trang bị pháo chính SA-49 cỡ 75mm với cơ số đạn 32 viên và súng máy cỡ 7,62mm. Ảnh minh họa
Năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Nol (Campuchia), bộ đội ta đã thu được một xe tăng hạng nhẹ AMX-13-75 trong tình trạng pháo không có khóa nòng. Chiếc xe này nằm trong số 40 chiếc mà chính phủ Pháp viện trợ cho Campuchia năm 1971. AMX-13-75 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 10-40mm với kíp xe 3 người. Xe được trang bị pháo chính SA-49 cỡ 75mm với cơ số đạn 32 viên và súng máy cỡ 7,62mm. Ảnh minh họa

Ngày 1/4/1972, Đoàn thiết giáp 26 đã sử dụng chiếc AMX-13-75 này (được Việt Nam gọi là M51) tham gia tiến công căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Dù pháo chính không bắn được, kíp lái đã dùng súng máy bắn yểm trợ bộ binh kết hợp với cho động cơ gầm rú uy hiếp tinh thần địch. Sau khi trận đánh kết thúc thắng lợi, xe bị hỏng nặng không thể khôi phục nên nên phải cho phá hủy tại trận địa. Đến đây, chiếc AMX-13-75 duy nhất của lực lượng tăng – thiết giáp Việt Nam đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Ảnh minh họa
Ngày 1/4/1972, Đoàn thiết giáp 26 đã sử dụng chiếc AMX-13-75 này (được Việt Nam gọi là M51) tham gia tiến công căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Dù pháo chính không bắn được, kíp lái đã dùng súng máy bắn yểm trợ bộ binh kết hợp với cho động cơ gầm rú uy hiếp tinh thần địch. Sau khi trận đánh kết thúc thắng lợi, xe bị hỏng nặng không thể khôi phục nên nên phải cho phá hủy tại trận địa. Đến đây, chiếc AMX-13-75 duy nhất của lực lượng tăng – thiết giáp Việt Nam đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Ảnh minh họa

Xe tăng lội nước Type 63 do Trung Quốc thiết kế trên cơ sở xe tăng PT-76 của Liên Xô. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 19,8 tấn, bọc thép 10-14mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ 85mm với cơ số đạn 47 viên, 1 đại liên phòng không Type 54 cỡ 12,7mm và 1 súng máy đồng trục Type 59T cỡ 7,62mm. Trong ảnh là xe tăng Type 63 trên đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975.
 Xe tăng lội nước Type 63 do Trung Quốc thiết kế trên cơ sở xe tăng PT-76 của Liên Xô. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 19,8 tấn, bọc thép 10-14mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ 85mm với cơ số đạn 47 viên, 1 đại liên phòng không Type 54 cỡ 12,7mm và 1 súng máy đồng trục Type 59T cỡ 7,62mm. Trong ảnh là xe tăng Type 63 trên đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Ở Việt Nam, Type 63 được biết đến dưới tên gọi PT-85 hoặc K-63-85. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng Type 63 trong giai đoạn 1970-1971. Type 63 xuất trận lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1972 và sau này tiếp tục được bộ đội tăng thiết giáp sử dụng trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ cũng như trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong ảnh là một chiếc xe tăng Type 63 lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thắng 30/4.
Ở Việt Nam, Type 63 được biết đến dưới tên gọi PT-85 hoặc K-63-85. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam nhiều xe  tăng Type 63 trong giai đoạn 1970-1971. Type 63 xuất trận lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1972 và sau này tiếp tục được bộ đội tăng thiết giáp sử dụng trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ cũng như trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong ảnh là một chiếc xe tăng Type 63 lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thắng 30/4.

Xe bọc thép chở quân Type 63 do Trung Quốc nghiên cứu phát triển và đưa vào trang bị từ những năm 1960. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 12,6 tấn, vỏ thép nơi dày nhất là 14mm, kíp xe 2 người, được trang bị 1 đại liên Type 54 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh.
Xe bọc thép chở quân Type 63 do Trung Quốc nghiên cứu phát triển và đưa vào trang bị từ những năm 1960. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 12,6 tấn, vỏ thép nơi dày nhất là 14mm, kíp xe 2 người, được trang bị 1 đại liên Type 54 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh.

Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971 và được định danh K63. Type 63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.
Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971 và được định danh K63.  Type 63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.

Pháo phòng không tự hành Type 63 do Trung Quốc chế tạo dựa trên khung gầm cơ sở xe tăng Type 58 (sao chép xe tăng T-34 Liên Xô). Xe có trọng lượng chiến đấu 32 tấn, vỏ thép 18-45mm, kíp xe 6 người và được trang bị pháo 2 nòng Type 63 cỡ 37mm. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận được một số pháo Type 63 (định danh là ZSU-37-2) từ Trung Quốc và đã sử dụng làm nhiệm vụ phòng không bảo vệ miền Bắc và tham gia cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong ảnh là một chiếc Type 63 lại bảo tàng Mỹ.
Pháo phòng không tự hành Type 63 do Trung Quốc chế tạo dựa trên khung gầm cơ sở xe tăng Type 58 (sao chép xe tăng T-34 Liên Xô). Xe có trọng lượng chiến đấu 32 tấn, vỏ thép 18-45mm, kíp xe 6 người và được trang bị pháo 2 nòng Type 63 cỡ 37mm. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận được một số pháo Type 63 (định danh là ZSU-37-2) từ Trung Quốc và đã sử dụng làm nhiệm vụ phòng không bảo vệ miền Bắc và tham gia cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong ảnh là một chiếc Type 63 lại bảo tàng Mỹ.

Xe tăng M48 Patton do Mỹ thiết kế từ những năm 1950 và viện trợ cho quân đội Sài Gòn năm 1971. Tính tới thời điểm đầu 1975 thì còn khoảng 160 chiếc. Nhưng ngay từ năm 1965, quân Mỹ bắt đầu sử dụng M48 Patton ở Việt Nam. Biến thể M48A3 có trọng lượng chiến đấu 49,6 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M41 cỡ 90mm, đại liên M2 cỡ 12,7mm và súng máy M73 cỡ 7,62mm.
Xe tăng M48 Patton do Mỹ thiết kế từ những năm 1950 và viện trợ cho quân đội Sài Gòn năm 1971. Tính tới thời điểm đầu 1975 thì còn khoảng 160 chiếc. Nhưng ngay từ năm 1965, quân Mỹ bắt đầu sử dụng M48 Patton ở Việt Nam. Biến thể M48A3 có trọng lượng chiến đấu 49,6 tấn, kíp xe 4 người và trang  bị hỏa lực pháo chính M41 cỡ 90mm, đại liên M2 cỡ 12,7mm và súng máy M73 cỡ 7,62mm.

Trong chiến đấu, ta đã tịch thu được một số chiếc M48A3 và sử dụng trong một vài chiến dịch. Sau ngày đất nước thống nhất, một số ít M48A3 còn lại tiếp tục được huy động tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Tuy nhiên vì nhiều lý do liên quan đến tính năng và hậu cần, loại xe này chỉ được quân đội ta sử dụng một cách khá hạn chế. Trong ảnh là một chiếc M48 trên đường phố Sài Gòn ngày chiến thắng 30/4/1975.
Trong chiến đấu, ta đã tịch thu được một số chiếc M48A3 và sử dụng trong một vài chiến dịch. Sau ngày đất nước thống nhất, một số ít M48A3 còn lại tiếp tục được huy động tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Tuy nhiên vì nhiều lý do liên quan đến tính năng và hậu cần, loại xe này chỉ được quân đội ta sử dụng một cách khá hạn chế. Trong ảnh là một chiếc M48 trên đường phố Sài Gòn ngày chiến thắng 30/4/1975.

Ngoài M48, trong chiến đấu bộ đội ta còn thu giữ được xe tăng hạng nhẹ M41. Đây là thiết kế của Mỹ ra đời năm 1947 nhằm thay thế vai trò xe tăng hạng nhẹ M24. M41 có trọng lượng chiến đấu 23,5 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M32 cỡ 76mm với cơ số đạn 57 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm.
Ngoài M48, trong chiến đấu bộ đội ta còn thu giữ được xe tăng hạng nhẹ M41. Đây là thiết kế của Mỹ ra đời năm 1947 nhằm thay thế vai trò xe tăng hạng nhẹ M24. M41 có trọng lượng chiến đấu 23,5 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M32 cỡ 76mm với cơ số đạn 57 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm.

Đầu năm 1965, với số lượng lớn được Mỹ viện trợ, M41 trở thành xe tăng chủ lực của quân đội Sài Gòn trong nhiều năm, với con số trên 220 xe ở thời điểm đầu 1975. Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam thu được chiếc M41 đầu tiên trong trận Gò Đậu (Bình Dương) ngày 23/3/1966. Ngày 1/4/1972, lần đầu tiên Đoàn thiết giáp 26 sử dụng xe tăng M41 tham gia chiến đấu trong trận Xa Mát (Tây Ninh), mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. M41 chiến lợi phẩm tiếp tục được thu và tận dụng lại với số lượng lớn, đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975. Sau ngày thống nhất, loại xe này còn tham gia thêm nhiều trận đánh tiêu diệt quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979).
Đầu năm 1965, với số lượng lớn được Mỹ viện trợ, M41 trở thành xe tăng chủ lực của quân đội Sài Gòn trong nhiều năm, với con số trên 220 xe ở thời điểm đầu 1975. Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam thu được  chiếc M41 đầu tiên trong trận Gò Đậu (Bình Dương) ngày 23/3/1966. Ngày 1/4/1972, lần đầu tiên Đoàn thiết giáp 26 sử dụng xe tăng M41 tham gia chiến đấu trong trận Xa Mát (Tây Ninh), mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. M41 chiến lợi phẩm tiếp tục được thu và tận dụng lại với số lượng lớn, đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975. Sau ngày thống nhất, loại xe này còn tham gia thêm nhiều trận đánh tiêu diệt quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979).

Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1944, trang bị cho các đơn vị thiết giáp Mỹ tham chiến trong giai đoạn cuối Thế chiến 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. M24 có trọng lượng chiến đấu 18,4 tấn, vỏ thép 9-38mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 75mm với cơ số đạn 48 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 2 đại liên M1919 cỡ 7,62mm.
Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1944, trang bị cho các đơn vị thiết giáp Mỹ tham chiến trong giai đoạn cuối Thế chiến 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. M24 có trọng lượng chiến đấu 18,4 tấn, vỏ thép 9-38mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 75mm với cơ số đạn 48 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 2 đại liên M1919 cỡ 7,62mm.

Xe tăng M24 được Mỹ viện trợ cho nhiều nước đồng minh như Pháp (sử dụng ở chiến trường Đông Dương 1945-1954), quân Lon Nol (Campuchia) và quân đội Sài Gòn. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II, bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7mm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa.
Xe tăng M24 được Mỹ viện trợ cho nhiều nước đồng minh như Pháp (sử dụng ở chiến trường Đông Dương 1945-1954), quân Lon Nol (Campuchia) và quân đội Sài Gòn. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II, bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7mm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa.

Pháo phòng không tự hành M42 Duster được Mỹ thiết kế trên khung gầm cơ sở xe tăng M41. M42 có trọng lượng chiến đấu 24,8 tấn, vỏ thép 9-25mm, kíp xe 4-6 người, trang bị pháo Bofors M2A1 2 nòng cỡ 40mm với cơ số đạn 480 viên và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. Trong thời kỳ 1965-1972, Mỹ đưa đã đưa M42 sang tham chiến Việt Nam với vai trò yểm trợ hỏa lực, chống bộ binh. Nhiều xe sau đó được chuyển giao cho quân đội Sài Gòn, biên chế trong 4 tiểu đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ và sân bay.
Pháo phòng không tự hành M42 Duster được Mỹ thiết kế trên khung gầm cơ sở xe tăng M41. M42 có trọng lượng chiến đấu 24,8 tấn, vỏ thép 9-25mm, kíp xe 4-6 người, trang bị pháo Bofors M2A1 2 nòng cỡ 40mm với cơ số đạn 480 viên và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. Trong thời kỳ 1965-1972, Mỹ đưa đã đưa M42 sang tham chiến Việt Nam với vai trò yểm trợ hỏa lực, chống bộ binh. Nhiều xe sau đó được chuyển giao cho quân đội Sài Gòn, biên chế trong 4 tiểu đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ và sân bay.

Sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ, một số ít xe có khả năng hoạt động được trang bị cho quân đội ta. Tháng 3/1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ K3 của Khmer Đỏ ở biên giới Campuchia-Thái Lan, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 đã sử dụng 5 xe M42 tham gia chi viện hỏa lực, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh đột phá giành thắng lợi.
 Sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ, một số ít xe có khả năng hoạt động được trang bị cho quân đội ta. Tháng 3/1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ K3 của Khmer Đỏ ở biên giới Campuchia-Thái Lan, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 đã sử dụng 5 xe M42 tham gia chi viện hỏa lực, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh đột phá giành thắng lợi.

Trong số các vũ khí hệ 2 từng được quân đội ta sử dụng thì M113 có thể coi là một trong những trường hợp thành công nhất. Loại xe này được Mỹ nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950, M113 có trọng lượng chiến đấu 12,3 tấn, kíp xe 2 người, được trang bị vũ khí chính là đại liên M2 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. M113 lần đầu xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tháng 3/1962 và sau này đóng vai trò là xe chiến đấu bộ binh chủ lực của quân Mỹ, đồng minh cũng như quân đội Sài Gòn trong toàn bộ giai đoạn chiến tranh.
Trong số các vũ khí hệ 2 từng được quân đội ta sử dụng thì M113 có thể coi là một trong những trường hợp thành công nhất. Loại xe này được Mỹ nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950, M113 có trọng lượng chiến đấu 12,3 tấn, kíp xe 2 người, được trang bị vũ khí chính là đại liên M2 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. M113 lần đầu xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tháng 3/1962 và sau này đóng vai trò là xe chiến đấu bộ binh chủ lực của quân Mỹ, đồng minh cũng như quân đội Sài Gòn trong toàn bộ giai đoạn chiến tranh.

Sau 1975, quân đội ta đã thu giữ số lượng lớn xe bọc thép M113 từ quân Sài Gòn. Chúng ta đã sử dụng hiệu quả M133 trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1977-1979, thậm chí phần nào lấn át cả vai trò của các loại xe bọc thép khác do Liên Xô và Trung Quốc chế tạo.
Sau 1975, quân đội ta đã thu giữ số lượng lớn xe bọc thép M113 từ quân Sài Gòn. Chúng ta đã sử dụng hiệu quả M133 trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1977-1979, thậm chí phần nào lấn át cả vai trò của các loại xe bọc thép khác do Liên Xô và Trung Quốc chế tạo.

Bên cạnh phiên bản M113 thông thường, quân đội ta còn sử dụng các biến thể chiến đấu và bảo đảm khác gồm: M113 gắn súng không giật M40 106mm hoặc K56 75mm (do Việt Nam cải tiến), M113 ACAV (có tấm chắn cho xạ thủ và thêm 2 súng máy M1919 cỡ 7,62mm), M132 (gắn súng phun lửa và súng máy M73 cỡ 7,62mm), M106 (mang súng cối 106,7mm M30), M125 (mang súng cối 81mm M29), M577 (xe chỉ huy), M548 (xe vận tải xích và cứu kéo). Trong ảnh là biến thể mang súng cối 106,7mm M106.
Bên cạnh phiên bản M113 thông thường, quân đội ta còn sử dụng các biến thể chiến đấu và bảo đảm khác gồm: M113 gắn súng không giật M40 106mm hoặc K56 75mm (do Việt Nam cải tiến), M113 ACAV (có tấm chắn cho xạ thủ và thêm 2 súng máy M1919 cỡ 7,62mm), M132 (gắn súng phun lửa và súng máy  M73 cỡ 7,62mm), M106 (mang súng cối 106,7mm M30), M125 (mang súng cối 81mm M29), M577 (xe chỉ huy), M548 (xe vận tải xích và cứu kéo). Trong ảnh là biến thể mang súng cối 106,7mm M106. 

Xe bọc thép trinh sát V-100 được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1964. Xe có trọng lượng chiến đấu 7,4 tấn, vỏ thép dày nhất khoảng 6mm, kíp xe 3 người và được trang bị 2 súng cỡ 7,62mm. Năm 1967 quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu triển khai V-100 trên chiến trường, trong đó một số xe được cải tiến trang bị thêm 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm hoặc súng M1919 cỡ 7,62mm.
Xe bọc thép trinh sát V-100 được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1964. Xe có trọng lượng chiến đấu 7,4 tấn, vỏ thép dày nhất khoảng 6mm, kíp xe 3 người và được trang bị 2 súng cỡ 7,62mm. Năm 1967 quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu triển khai V-100 trên chiến trường, trong đó một số xe  được cải tiến trang bị thêm 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm hoặc súng M1919 cỡ 7,62mm.

Tính đến đầu năm 1975, quân đội Sài Gòn có khoảng trên 100 xe bọc thép V-100, chủ yếu trang bị cho các đơn vị bảo vệ sở chỉ huy, các đơn vị thiết giáp của địa phương quân và lực lượng cảnh sát dã chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, V-100 chiến lợi phẩm được biên chế cho nhiều đơn vị trinh sát và cảnh vệ thuộc Quân khu 7 hoặc 9 và đã tham gia một số trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam trong giai đoạn 1977-1979. Trong ảnh là xe bọc thép V-100 trong biên chế lực lượng tăng – thiết giáp quân đội ta.
Tính đến đầu năm 1975, quân đội Sài Gòn có khoảng trên 100 xe bọc thép V-100, chủ yếu trang bị cho các đơn vị bảo vệ sở chỉ huy, các đơn vị thiết giáp của địa phương quân và lực lượng cảnh sát dã chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, V-100 chiến lợi phẩm được biên chế cho nhiều đơn vị trinh sát và cảnh vệ thuộc Quân khu 7 hoặc 9 và đã tham gia một số trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam trong giai đoạn 1977-1979. Trong ảnh là xe bọc thép V-100 trong biên chế lực lượng tăng – thiết giáp quân đội ta.

Xe bọc thép trinh sát M8 Greyhound được Mỹ thiết kế chế tạo từ trong Thế chiến thứ 2. Xe có trọng lượng chiến đấu 8,6 tấn, vỏ thép 3-19mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 37mm với cơ số đạn 80 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. M8 Greyhound do Mỹ cung cấp đã tham chiến khá nhiều trên chiến trường Đông Dương trong biên chế quân đội viễn chinh Pháp giai đoạn 1945-1954 và sau đó tiếp tục được quân Lon Nol Campuchia và quân đội Sài Gòn sử dụng ở thời kỳ 1954-1975. Ảnh minh họa
Xe bọc thép trinh sát M8 Greyhound được Mỹ thiết kế chế tạo từ trong Thế chiến thứ 2. Xe có trọng lượng chiến đấu 8,6 tấn, vỏ thép 3-19mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 37mm với cơ số đạn 80 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. M8 Greyhound do Mỹ cung cấp đã tham chiến khá nhiều trên chiến trường Đông Dương trong biên chế quân đội viễn chinh Pháp giai đoạn 1945-1954 và sau đó tiếp tục được quân Lon Nol Campuchia và quân đội Sài Gòn sử dụng ở thời kỳ 1954-1975. Ảnh minh họa

Quân đội ta thu được một số xe M8 trong kháng chiến chống Pháp và sau này trong kháng chiến chống Mỹ còn thu thêm 1 xe nữa từ quân Lon Nol trong cuộc hành quân Chenla II cuối năm 1971. Tuy vậy số xe này chủ yếu được dùng vào nhiệm vụ huấn luyện, chưa có ghi nhận trường hợp nào bộ đội tăng thiết giáp đưa nó vào trực tiếp chiến đấu. Trong ảnh là bác Hồ duyệt đội xe bọc thép trinh sát M8.
Quân đội ta thu được một số xe M8 trong kháng chiến chống Pháp và sau này trong kháng chiến chống Mỹ còn thu thêm 1 xe nữa từ quân Lon Nol trong cuộc hành quân Chenla II cuối năm 1971. Tuy vậy số xe này chủ yếu được dùng vào nhiệm vụ huấn luyện, chưa có ghi nhận trường hợp nào bộ đội tăng thiết giáp đưa nó vào trực tiếp chiến đấu. Trong ảnh là bác Hồ duyệt đội xe bọc thép trinh sát M8.

Đọc nhiều nhất

Tin mới