Động vật càng 'to xác' càng ăn ít, vật lý không giải thích nổi?

Việc động vật có kích thước cơ thể càng to lớn càng tiêu thụ ít năng lượng tương đối so với động vật nhỏ là một câu hỏi hóc búa với giới sinh học.

Việc động vật có kích thước cơ thể càng to lớn càng tiêu thụ ít năng lượng tương đối so với động vật nhỏ là một câu hỏi hóc búa với giới sinh học.

Nếu hình dung về những công việc dạng "làm sáng tỏ những bí ẩn của vũ trụ", hẳn mọi người sẽ nghĩ ngay đến các vấn đề vật lý xa xôi: các nhà thiên văn quan sát qua kính viễn vọng các thiên hà tít tắp, hoặc các nhà thí nghiệm "nghịch" với các hạt cơ bản trong máy gia tốc hạt.

Khi các nhà sinh vật học cố gắng làm sáng tỏ những bí ẩn sâu xa của vũ trụ, họ cũng có xu hướng tiếp cận bằng vật lý học nhằm lý giải. Nhưng theo một nghiên cứu mới được công bố trên chuyên trang Science, đôi khi vật lý - môn học của thế giới vật chất - cũng "bó tay" với vài vấn đề sinh học.

Trong nhiều thế kỷ, các nhà khoa học đã đặt câu hỏi tại sao, một cách tương đối, động vật lớn lại đốt ít năng lượng hơn và đòi hỏi ít thức ăn hơn động vật nhỏ. Tại sao một con chuột chù nhỏ bé lại cần tiêu thụ lượng thức ăn gấp 3 lần trọng lượng cơ thể của nó trong khi một con cá voi khổng lồ có thể no đủ hàng ngày chỉ bằng 5-30% trọng lượng cơ thể, với thức ăn chủ yếu là loài nhuyễn thể?

Dong vat cang 'to xac' cang an it, vat ly khong giai thich noi?

Xét một cách tương đối, con chuột tí hon "phàm ăn" hơn cả cá voi khổng lồ.

Mặc dù những nỗ lực trước đây để giải thích "nghịch lý" này đã dựa vào vật lý và hình học, các nhà sinh học tin rằng câu trả lời thực sự nằm ở tiến hóa. Chìa khóa là việc tối ưu hóa khả năng có con của các sinh vật.

Câu hỏi đau đầu, vật lý cũng gặp khó

Nỗ lực giải thích đầu tiên cho hiện tượng "chuột ăn lắm, cá voi ăn ít" hay nói đúng hơn là mối quan hệ bất tương xứng giữa kích thước cơ thể với nhu cầu chuyển hóa, diễn ra cách đây gần 200 năm.

Vào năm 1827, 2 nhà khoa học Pháp Pierre Sarrus và Jean-François Rameaux lập luận rằng mức chuyển hóa năng lượng nên tỷ lệ thuận với diện tích bề mặt cơ thể thay vì khối lượng hay thể tích. Vấn đề ở chỗ, chuyển hóa tạo ra nhiệt lượng, và lượng nhiệt mà một con vật có thể phân tán ra môi trường lại phụ thuộc vào diện tích bề mặt cơ thể của nó.

Trong 185 năm kể từ khi Sarrus và Rameaux đưa ra lời giải, nhiều nỗ lực khác đã được đề xuất.

Dong vat cang 'to xac' cang an it, vat ly khong giai thich noi?-Hinh-2

Voi châu Phi còn ăn khiêm tốn hơn, với mức tiêu thụ 4-7% khối lượng cơ thể/ngày.

Được cho là nổi tiếng nhất trong số này là nghiên cứu của Mỹ do Geoff West, Jim Brown và Brian Enquist xuất bản vào năm 1997. Họ đề xuất một mô hình mô tả sự vận chuyển của các vật chất thiết yếu thông qua mạng lưới các ống phân nhánh, mô phỏng hệ thống tuần hoàn.

Họ cho rằng mô hình của họ cung cấp "một cơ sở lý thuyết, cơ học để hiểu vai trò trung tâm của kích thước cơ thể trong mọi khía cạnh của sinh học".

2 lời giải trên giống nhau về mặt học thuật. Giống như nhiều cách tiếp cận khác được đưa ra trong thế kỷ qua, họ cố gắng lý giải các mô hình sinh học bằng cách viện dẫn các ràng buộc vật lý và hình học.

Vấn đề nằm ở tiến hóa

Các sinh vật sống không thể tồn tại bất chấp các quy luật vật lý. Tuy nhiên, sự tiến hóa đã được chứng minh là rất giỏi trong việc tìm ra cách khắc phục những hạn chế về vật lý và hình học.

Trong nghiên cứu mới của mình, các nhà sinh học tại Đại học Monash quyết định xem điều gì sẽ xảy ra với mối quan hệ giữa tỷ lệ trao đổi chất và kích thước nếu bỏ qua các ràng buộc vật lý và hình học.

Dong vat cang 'to xac' cang an it, vat ly khong giai thich noi?-Hinh-3

Họ phát triển một mô hình toán học chỉ ra rằng động vật sẽ dành phần lớn năng lượng trong giai đoạn đầu đời để phát triển và khi đã trưởng thành, phần lớn năng lượng sẽ dành cho việc duy trì nòi giống.

Họ cố gắng xác định xem nhân tố nào trong đời sống động vật chi phối khả năng sinh sản trong cuộc đời chúng, và phát hiện ra là càng các động vật to lớn nhưng tiết kiệm năng lượng giống ví dụ về cá voi ở trên, lại càng thành công trong việc sinh con đẻ cái.

Nói cách khác, chính chọn lọc tự nhiên đã làm việc của nó và khiến điều khó hiểu về mặt vật lý trên. Nhà sinh vật học người Mỹ Theodosius Dobzhansky từng có câu nói nổi tiếng: "Chẳng gì giải thích được sinh học trừ việc đặt nó dưới ánh sáng của thuyết tiến hóa".

Nói tóm lại, đôi khi sinh học và sự sống kỳ diệu đến mức tạo ra những điều tưởng như là "phép màu" trong thế giới vật chất.

Khám phá cá chình: Sinh vật bí ẩn

Là loài thủy sản giá trị cao và cực kỳ bổ dưỡng, cá chình hay lươn (eel) đã được nhân loại khai thác làm thực phẩm từ cả ngàn năm nay.

Cá chình (Anguilla) có thân dài giống rắn, thường hoạt động về đêm và ưa sinh sản tại những vùng biển xa, nghèo dinh dưỡng. Những con non (mới nở) có kích thước bằng hạt gạo, sau đó sẽ bắt đầu một hành trình dài – lên đến 6.000 km – tới các khu vực nước ngọt hoặc nước lợ để sinh trưởng trong nhiều năm. Cá chình trưởng thành có thể nặng đến 20 kg, trước khi quay lại biển đẻ trứng rồi chết và chìm xuống đáy sâu1.

PGS-TS La Thế Vinh: Nhà khoa học “mê” sơn chịu nhiệt

Phó giáo sư - tiến sỹ (PGS-TS) La Thế Vinh đã tạo ra một sản phẩm được đánh giá là dẫn đầu các loại sơn ở Việt Nam về khả năng chịu nhiệt độ cao.

PGS-TS La Thế Vinh gắn bó với Đại học (ĐH) Bách khoa Hà Nội từ thời đi học đến nay, khi đã là một nhà khoa học có thành tựu. Ông đang là Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật hóa học thuộc trường này.
Bị ngộ độc vì ham thí nghiệm
Phòng thí nghiệm vật liệu hóa học đầy ắp ánh sáng tràn vào từ rất nhiều ô cửa kính nhưng vẫn mát mắt, tạo cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng do được bao bọc bởi những tán cây xanh rì - vốn là cảnh quan quen thuộc của ĐH Bách khoa Hà Nội. Sắc xanh từ cây cối khiến người ta quên đi mùi hóa chất. Khoác chiếc áo blouse trắng đã cũ sờn, TS La Thế Vinh bước vào với nụ cười hóm hỉnh: “Đừng để ý cái áo của tôi nhé, đây là áo mới nhất rồi, hy vọng lên ảnh mọi người không nhận ra những chỗ sờn”. 
PGS-TS La The Vinh: Nha khoa hoc “me” son chiu nhietPGS-TS La Thế Vinh trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Lê Hằng. 
Chuyện ông kể về thời sinh viên khiến tôi hết ngạc nhiên về chiếc áo, bởi La Thế Vinh ngày ấy và bây giờ là một: Ngoài khoa học, những điều khác ông đều chẳng mấy để tâm.
“Năm đầu đại học, được vào phòng thí nghiệm, tôi hào hứng lắm, thường xuyên về muộn để hoàn thiện thí nghiệm. Có hôm quên ăn trưa, khi nhớ ra tôi vội chạy tới quán cơm ở phố Bạch Mai mà chưa kịp rửa sạch hóa chất bám trên tay. Thế là bị ngộ độc, bài học mà bây giờ tôi vẫn hay kể cho sinh viên để rút kinh nghiệm” - nhà khoa học sinh năm 1973 kể.
Niềm đam mê với sơn chịu nhiệt
Hè 1995, chàng sinh viên năm thứ ba La Thế Vinh được cử đi thực tập tại một nhà máy hóa chất ở Phú Thọ và nhận thấy rất nhiều máy móc, thiết bị han gỉ, hỏng hóc do lớp sơn bị huỷ hoại từ lâu. “Có nhiều hôm tôi chỉ đứng nhìn ống khói nhà máy xả khói đen sì, do cũng đang tìm hiểu về sơn chịu nhiệt nên tôi nảy ra ý nghĩ rằng nếu mình làm được một loại sơn phủ thiết bị, máy móc thật hiệu quả thì tuyệt vời” - TS Vinh nhớ lại.
Tuy nhiên, do học chuyên ngành phân bón, cơ sở vật chất hồi đó lại rất khó khăn, Vinh không có nhiều điều kiện để nghiên cứu về sơn chịu nhiệt. Để có tiền mua bột màu và các hóa chất thí nghiệm, chàng trai chăm chỉ làm gia sư. Vinh kể: “Hễ dành được tiền từ việc đi dạy, tôi lại đạp xe lên phố Nguyễn Khuyến mua bột màu. Ít tiền nên mỗi lần tôi chỉ mua nửa cân đến một cân”.
Việc mày mò nghiên cứu sơn chịu nhiệt vẫn được Vinh tiếp tục sau khi tốt nghiệp cử nhân, thạc sỹ rồi chính thức làm việc ở ĐH Bách khoa. Ông thử nghiệm sản phẩm trên các tấm tôn, sắt phế phẩm và vui mừng nhận thấy ở nhiệt độ cao, sơn vẫn bám chắc, bề mặt nhẵn bóng. Để khẳng định sản phẩm có khả năng chịu nhiệt trên nhiều vật liệu, ông tiếp tục phủ sơn lên dây bếp điện, sau đó cắm điện cho bếp đỏ lên. Kết quả là 6 tháng sau, bếp vẫn dùng tốt, lớp sơn không bị hỏng.
Năm 2001, La Thế Vinh mang sản phẩm trở về nơi thực tập cũ là nhà máy hóa chất ở Phú Thọ để thử nghiệm. Lãnh đạo nhà máy đồng ý dùng sơn này cho một đoạn đường ống có nhiệt độ khoảng 8000C khi hệ thống vận hành, vốn thường xuyên bị hỏng. Một thời gian dài sau đó, Vinh nhận được cuộc gọi từ cậu học trò cũ làm ở nhà máy kia: “Sơn của thầy tốt thật, buổi tối bọn em đi qua đoạn đường ống đó, thấy sắt thép đỏ rực lên ở nhiệt độ cao, thế mà sơn của thầy vẫn không sao”.
PGS-TS Vinh giải thích, khi ở nhiệt độ cao, trong môi trường hơi nước và không khí, kim loại bị ăn mòn rất nhanh. “Máy móc, thiết bị công nghiệp rất đắt nên việc sơn chịu nhiệt khắc phục được vấn đề đó đối với tôi là niềm vui rất lớn” - ông nói và cho biết, sản phẩm này được đánh giá là dẫn đầu về khả năng chịu nhiệt trong các loại sơn ở Việt Nam, đã được xuất khẩu sang Đài Loan.
Người thầy nhiệt tâm
Là người tâm huyết với việc đào tạo, PGS-TS Vinh luôn truyền đạt cho sinh viên những thông tin khoa học, công nghệ mới nhất đã được ông chắt lọc, kiểm định. GS-TS Nguyễn Trọng Uyển - khoa Hóa học, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội - nhận xét: “TS Vinh là người yêu khoa học thật sự, có tinh thần học hỏi các thế hệ đi trước và cũng biết cách giúp đỡ, đào tạo sinh viên”.
Bùi Quốc Huy - một sinh viên cũ của TS Vinh, nay là Phó Trưởng khoa Hóa, ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên - tâm sự: “Từng trải qua thuở hàn vi nên thầy hiểu và cảm thông với sinh viên khi làm nghiên cứu, luôn sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng. Tôi biết có những thời điểm gặp khó nhưng thầy không nản lòng, đã làm việc gì là cố bằng được. Đó là điều tôi phục nhất”.
TS Vinh cũng thừa nhận: “Bất kể giờ nào, khi chưa xong việc thì tôi không rời phòng thí nghiệm. Khi căng thẳng quá, tôi mới tự cho phép mình nghỉ ngơi để thay đổi trạng thái bằng cách chạy bộ hay đi bơi".

Đọc nhiều nhất

Tin mới