Nằm ở địa phận phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, nghĩa trũng Hòa Vang hay nghĩa trang Hòa Vang được coi là nghĩa trang liệt sĩ cổ xưa nhất của Việt Nam.Được thành lập vào năm 1866, nghĩa trũng này là nơi quy tụ hài cốt những người lính của triều đình nhà Nguyễn đã ngã xuống trong cuộc chiến chống liên quân xâm lược Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng trong năm 1858-1860.Ban đầu, nghĩa trũng được lập ở xứ Trủng Bò làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ). Khoảng năm 1920, Pháp mở sân bay Đà Nẵng, nghĩa trũng được dời về vườn nhà ông Bá ở xứ Trảng Dài làng Khuê Trung.Đến 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay về phía Nam, nghĩa trũng phải chuyển đến địa điểm hiện tại, vốn là vùng đất được người địa phương gọi là Thổ Khố (đất kho), nơi Khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương cho lập kho chứa quân lương chống Pháp.Nằm trong cụm di tích rộng 2.800m2, gồm cả Nhà thờ Tiền hiền Khuê Trung, miếu Bà, giếng Chăm... nghĩa trũng Hòa Vang nằm quay mặt về hướng Đông, được thiết kế theo mô hình tam ban: chính diện và tả hữu ban.Sau cổng vào có một nhà bia đặt tấm bia sa thạch ghi bốn chữ Hán đại tự “Hòa Vinh nghĩa trũng” (Vinh được đọc trại thành Vang - Hòa Vang).Sau tấm bia là một ngôi mộ lớn, trên bia xi-măng có cẩn hàng chữ “Tiền triều Đại tướng quý công mộ”. Tiếp sau đó là đài Chiến sĩ bằng xi-măng cao khoảng 3 mét với các am thờ, bàn hương án dành cho việc cúng tế hằng năm. Hai bên tả hữu nghĩa trũng có gần 1.300 ngôi mộ xếp cân phân, ngay thẳng.Một thời dưới chính sách hà khắc của thực dân Pháp, người dân Khuê Trung chỉ đơn giản gọi nấm mồ các anh hùng nghĩa sĩ là Âm linh cô mộ. Đến ngày 17/11 Âm lịch hằng năm, dân làng lại tề tựu về trước các bàn án làm lễ dâng hương tưởng niệm vong linh nghĩa sĩ.Về sau, do chiến tranh diễn ra ác liệt nên lệ này nhiều năm không còn được thực hiện. Đến nay, lễ cúng tế vong linh nghĩa sĩ được tổ chức kết hợp với lễ tế Tiền hiền làng Khuê Trung vào ngày 16/3 âm lịch hằng năm.Có thể nói, nghĩa trũng Hòa Vang chính là đài tôn vinh khí phách của các anh hùng nghĩa sĩ, đồng thời là cột mốc đánh dấu sự thất bại ngay trận đầu của quân Pháp khi đánh vào Đà Nẵng.
Nằm ở địa phận phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, nghĩa trũng Hòa Vang hay nghĩa trang Hòa Vang được coi là nghĩa trang liệt sĩ cổ xưa nhất của Việt Nam.
Được thành lập vào năm 1866, nghĩa trũng này là nơi quy tụ hài cốt những người lính của triều đình nhà Nguyễn đã ngã xuống trong cuộc chiến chống liên quân xâm lược Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng trong năm 1858-1860.
Ban đầu, nghĩa trũng được lập ở xứ Trủng Bò làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ). Khoảng năm 1920, Pháp mở sân bay Đà Nẵng, nghĩa trũng được dời về vườn nhà ông Bá ở xứ Trảng Dài làng Khuê Trung.
Đến 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay về phía Nam, nghĩa trũng phải chuyển đến địa điểm hiện tại, vốn là vùng đất được người địa phương gọi là Thổ Khố (đất kho), nơi Khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương cho lập kho chứa quân lương chống Pháp.
Nằm trong cụm di tích rộng 2.800m2, gồm cả Nhà thờ Tiền hiền Khuê Trung, miếu Bà, giếng Chăm... nghĩa trũng Hòa Vang nằm quay mặt về hướng Đông, được thiết kế theo mô hình tam ban: chính diện và tả hữu ban.
Sau cổng vào có một nhà bia đặt tấm bia sa thạch ghi bốn chữ Hán đại tự “Hòa Vinh nghĩa trũng” (Vinh được đọc trại thành Vang - Hòa Vang).
Sau tấm bia là một ngôi mộ lớn, trên bia xi-măng có cẩn hàng chữ “Tiền triều Đại tướng quý công mộ”. Tiếp sau đó là đài Chiến sĩ bằng xi-măng cao khoảng 3 mét với các am thờ, bàn hương án dành cho việc cúng tế hằng năm. Hai bên tả hữu nghĩa trũng có gần 1.300 ngôi mộ xếp cân phân, ngay thẳng.
Một thời dưới chính sách hà khắc của thực dân Pháp, người dân Khuê Trung chỉ đơn giản gọi nấm mồ các anh hùng nghĩa sĩ là Âm linh cô mộ. Đến ngày 17/11 Âm lịch hằng năm, dân làng lại tề tựu về trước các bàn án làm lễ dâng hương tưởng niệm vong linh nghĩa sĩ.
Về sau, do chiến tranh diễn ra ác liệt nên lệ này nhiều năm không còn được thực hiện. Đến nay, lễ cúng tế vong linh nghĩa sĩ được tổ chức kết hợp với lễ tế Tiền hiền làng Khuê Trung vào ngày 16/3 âm lịch hằng năm.
Có thể nói, nghĩa trũng Hòa Vang chính là đài tôn vinh khí phách của các anh hùng nghĩa sĩ, đồng thời là cột mốc đánh dấu sự thất bại ngay trận đầu của quân Pháp khi đánh vào Đà Nẵng.