Tại Hội thảo “Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 7/11, ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến, Bí thư Chi bộ, Chánh VP Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam đã trình bày một số góp ý của Hội. Báo Tri thức và Cuộc sống xin trích đăng Góp ý Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Chi bộ Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam.
Làm rõ mối quan hệ giữa đổi mới thể chế chính trị và thể chế kinh tế
Về dự thảo Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến khẳng định, Dự thảo được xây dựng công phu, bố cục hợp lý, kết cấu chặt chẽ; thể hiện rõ tính kế thừa, phát triển và sáng tạo so với các Chương trình hành động của các kỳ Đại hội trước. Nội dung phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng về phát triển nhanh, bền vững đất nước giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, bao quát đầy đủ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác xây dựng Đảng.
Việc lượng hóa các chỉ tiêu phát triển, các danh mục nhiệm vụ, đề án, dự án kèm theo thể hiện tinh thần chuyển mạnh từ tư duy nghị quyết sang tư duy hành động, từ mục tiêu định tính sang mục tiêu định lượng. Tuy nhiên, để tăng tính khả thi, cần cụ thể hóa hơn nữa về nguồn lực, cơ chế điều phối và công cụ giám sát, nhất là đối với các chương trình trọng điểm quốc gia.
Về mặt tư tưởng, Dự thảo thể hiện sâu sắc quan điểm nhất quán của Đảng: lấy dân làm gốc; phát triển để ổn định, ổn định để phát triển; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng. Tinh thần đổi mới, tự cường, hội nhập quốc tế được thể hiện rõ; tuy nhiên, nên nhấn mạnh hơn tính kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong khi vẫn linh hoạt, sáng tạo trong phương thức lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Bên cạnh đó, một số phần còn dàn trải, trùng lặp giữa “nhiệm vụ trọng tâm” và “giải pháp thực hiện”, chưa làm nổi bật mối quan hệ giữa mục tiêu, giải pháp, kết quả. Cần tăng cường “tính hành động”, phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành và địa phương.
Về nội dung nhiệm vụ chủ yếu, mục 1 (Thể chế phát triển), theo ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến, hoàn thiện, đồng bộ là yêu cầu cấp thiết; tuy nhiên nên làm rõ mối quan hệ giữa đổi mới thể chế chính trị và thể chế kinh tế, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện chuyển đổi số và kinh tế tri thức.
Mục 2 (Mô hình tăng trưởng mới), Dự thảo xác định rõ động lực là khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo; cần bổ sung tiêu chí đánh giá mô hình tăng trưởng mới, cũng như các công cụ đo lường hiệu quả của chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Mục 3 (Văn hoá, con người), nội dung tiến bộ, phù hợp với tinh thần Văn kiện Đại hội XIV. Đề nghị thể chế hoá mạnh hơn vai trò của “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội”, coi đầu tư cho văn hoá, giáo dục, con người là đầu tư cho phát triển bền vững.
- Mục 4 (Giáo dục và khoa học - công nghệ), các nhiệm vụ cụ thể, song cần đặt rõ hơn mối quan hệ giữa giáo dục – đào tạo và sử dụng nhân lực chất lượng cao, giữa đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục đại học; bổ sung nhiệm vụ “phát triển năng lực số cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý”.
Mục 5, 6 (Xã hội, môi trường), cần làm nổi bật yếu tố phát triển bao trùm, công bằng, không ai bị bỏ lại phía sau; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu “chuyển đổi năng lượng công bằng” và “kinh tế cácbon thấp”.
Mục 7 (Xây dựng, chỉnh đốn Đảng), đây là nội dung cốt lõi, thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền. Dự thảo đã đề cập toàn diện các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, giám sát… Tuy nhiên nên nhấn mạnh thêm tính nêu gương, tự soi – tự sửa của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu; coi đây là phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới.
Mục 13 về ba đột phá chiến lược
1) Đột phá về thể chế: Đã được mở rộng phạm vi, bao gồm thể chế chính trị, kinh tế, xã hội và số hoá - là bước tiến quan trọng. Đề nghị làm rõ thể chế phát triển vùng, thể chế liên kết vùng và cơ chế phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm soát quyền lực.
2) Đột phá về nguồn nhân lực: Cần nêu rõ mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí, đức, thể, mỹ, gắn với chuyển đổi số và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
3) Đột phá về hạ tầng: Nội dung cụ thể, tầm nhìn dài hạn. Nên bổ sung thêm định hướng phát triển hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu và hạ tầng năng lượng xanh, coi đây là nền tảng của tăng trưởng bền vững.
Gắn chỉ tiêu phát triển kinh tế với chỉ tiêu về văn hoá, con người và môi trường
Về các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026–2030, ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến tán thành với hệ thống chỉ tiêu đề ra trong dự thảo, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân ≥10%/năm, tỉ trọng kinh tế số đạt 30% GDP, và HDI đạt 0,78, thể hiện tinh thần đột phá, khát vọng phát triển đất nước nhanh và bền vững. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung thêm một số chỉ tiêu phản ánh rõ hơn chất lượng tăng trưởng, như: Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực kinh tế chính thức; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia (GCI); Tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu, phát triển (R&D) trong GDP.
Cần làm rõ cơ sở tính toán và tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng GDP ≥10% trong bối cảnh thế giới còn nhiều bất định; đồng thời, nêu rõ các điều kiện tiên quyết để đạt được như: huy động nguồn lực xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện năng suất lao động, và chuyển đổi số đồng bộ.
Cần có sự gắn kết rõ hơn giữa các chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu phát triển Đảng (ví dụ: nâng tỷ lệ đảng viên khu vực tư nhân, nông thôn).
Đại diện Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam đề xuất thêm chỉ tiêu về “chất lượng tổ chức cơ sở đảng”, “tỷ lệ đảng viên trẻ, nữ”, và “ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động Đảng”.
Đề nghị gắn chỉ tiêu phát triển kinh tế với chỉ tiêu về văn hoá, con người và môi trường, đảm bảo hài hòa ba trụ cột: tăng trưởng, tiến bộ xã hội, bền vững sinh thái.
Về mục tiêu tăng trưởng GDP, GRDP giai đoạn 2026 - 2030, theo ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến, cần cụ thể hóa theo vùng, ngành; nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều hành phát triển bền vững.
Cần phân tích rõ hơn cơ cấu tăng trưởng theo vùng, địa phương để xác định động lực trọng điểm (vùng Thủ đô, Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long...), từ đó định hướng phân bổ đầu tư và hạ tầng chiến lược.
Đề nghị bổ sung chỉ tiêu GRDP bình quân đầu người của từng vùng kinh tế trọng điểm, nhằm tạo căn cứ đánh giá cân đối phát triển vùng và giảm chênh lệch phát triển giữa các khu vực.
Đề nghị chú trọng phát triển GRDP xanh và bền vững, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính trong chỉ tiêu tăng trưởng GRDP của từng ngành, địa phương.
Đề xuất lồng ghép mục tiêu tăng năng suất gắn với đổi mới sáng tạo và quản trị Đảng theo hướng tinh gọn - hiệu quả.
Về danh mục các nhiệm vụ, đề án, dự án, công trình quan trọng giai đoạn 2026–2030, tầm nhìn đến 2045, ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến cho rằng, Dự thảo hiện chưa thể hiện rõ sự liên kết giữa “chương trình hành động của Đảng” và “chính sách Nhà nước”.
Đại diện Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam nhất trí với các nhóm nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Đột phá về thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng chiến lược; Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Đồng thời đề nghị bổ sung các chương trình trọng điểm chính trị, tư tưởng như “Xây dựng văn hóa Đảng trong thời đại số”; Thêm đề án “Đổi mới công tác cán bộ gắn với chuyển đổi số”, “Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát thông minh”, “Phát triển đảng viên khu vực tư nhân”.
Về phát triển văn hoá và con người, cần có chương trình hành động riêng cho “phát triển văn hoá số, công nghiệp văn hoá và xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới”.
Về giáo dục, cần chú trọng “đổi mới đào tạo giáo viên” và “phát triển năng lực số cho đội ngũ nhà giáo”, đó là yếu tố then chốt để hiện đại hoá nền giáo dục quốc dân.
Về khoa học - công nghệ, nên bổ sung cơ chế “liên kết 3 nhà” (Nhà nước - Nhà khoa học - Doanh nghiệp) và chính sách “mạo hiểm đầu tư cho đổi mới sáng tạo”.
Về xã hội và an sinh, cần thể chế hóa rõ hơn “chính sách bảo đảm an sinh linh hoạt, bao phủ toàn dân, thích ứng biến đổi dân số và thị trường lao động mới”.
Về quản lý môi trường, biến đổi khí hậu, bổ sung nhiệm vụ phát triển “kinh tế cácbon thấp” và xây dựng “quỹ chuyển đổi năng lượng xanh”.
Về tổ chức thực hiện, cần làm rõ cơ chế điều phối, giám sát thực hiện Chương trình hành động, đặc biệt vai trò của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể; tránh trùng lặp, hình thức.
Đề nghị thiết lập hệ thống theo dõi trực tuyến tiến độ các đề án, dự án trọng điểm, có cảnh báo sớm và công khai định kỳ kết quả thực hiện cho nhân dân giám sát.
ThS Nguyễn Thị Hoàng Yến nêu khuyến nghị, chương trình hành động cần theo hướng tăng cường tính khả thi, tính liên thông và tính giám sát, tránh trùng lặp nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, địa phương. Bổ sung các chỉ tiêu phản ánh văn hoá, đạo đức, con người và đời sống tinh thần, để Chương trình không chỉ hướng tới phát triển kinh tế mà còn hướng tới phát triển con người Việt Nam toàn diện.
Tăng “tính hành động”: Mỗi nhiệm vụ nên bắt đầu bằng động từ cụ thể (“Tập trung…”, “Hoàn thiện…”, “Phát triển…”, “Tăng cường…”).
Nhấn mạnh ba định hướng xuyên suốt: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Phát triển nhanh, bền vững đất nước dựa trên khoa học, đổi mới sáng tạo; Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
Đảm bảo thống nhất thuật ngữ: Dùng đồng nhất các khái niệm như “phát triển nhanh, bền vững”, “chuyển đổi số quốc gia”, “kinh tế tri thức”, “văn hóa số”… để tránh trùng ý, rời rạc.
Văn hóa là nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững
Góp ý về Dự thảo " Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn cề 40 năm đổi mới ở Việt Nam, Đại diện Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam cho rằng, Báo cáo được biên soạn công phu, có tính hệ thống, phản ánh toàn diện quá trình 40 năm đổi mới cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, để tăng tính khái quát, cần làm rõ hơn mối quan hệ hữu cơ giữa phần tổng kết thực tiễn và phần phát triển lý luận, bảo đảm tính “song hành” giữa “học được gì từ thực tiễn” và “phát triển thêm gì về lý luận”.
Cấu trúc 5 phần nên rút gọn hoặc tái cấu trúc theo hướng “Nhận thức - Thực tiễn - Vấn đề đặt ra - Định hướng giải pháp”, tạo mạch tư duy rõ ràng hơn, tránh trùng lặp giữa phần II và III.
Cần bổ sung phần kết luận định hướng lý luận cho giai đoạn 2026-2045, gắn với tầm nhìn 2045 và Đại hội XV.
Về nhận thức lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Báo cáo trình bày đầy đủ tiến trình nhận thức qua các kỳ Đại hội, song nên khái quát thành các giai đoạn phát triển tư duy lý luận (1986–1995: Đổi mới tư duy; 1996–2005: Hình thành mô hình; 2006–2015: Hoàn thiện lý luận cơ bản; 2016–2025: Phát triển trong điều kiện mới).
Nên bổ sung nội dung “phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong điều kiện hội nhập sâu và cách mạng công nghiệp 4.0” – đây là đặc trưng mới của giai đoạn hiện nay.
Về lý luận kinh tế thị trường định hướng XHCN, Báo cáo nêu rõ 9 bước phát triển tư duy, song nên nhấn mạnh hơn vai trò đột phá của thể chế và cải cách thể chế như “hạ tầng mềm” của đổi mới. Cần bổ sung nội dung về kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và “xã hội số”, coi đó là sự kế thừa và mở rộng của tư duy kinh tế thị trường XHCN trong kỷ nguyên mới. Đề nghị làm rõ quan hệ giữa Nhà nước – thị trường – xã hội, nhất là vai trò của khu vực tư nhân và đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng xanh.
Về lý luận phát triển văn hóa, con người và xã hội, Báo cáo đã phản ánh quá trình bổ sung nhận thức của Đảng, tuy nhiên phần này nên nhấn mạnh tính đặc thù của “đổi mới văn hóa” – coi văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà là nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững. Bổ sung các nội dung về “văn hóa chính trị”, “văn hóa trong Đảng”, “văn hóa công vụ”, “văn hóa số” và vai trò của khoa học - giáo dục - tâm lý học - xã hội học trong hình thành con người Việt Nam thời kỳ mới.
Về tổng kết thực tiễn, phần thành tựu nên có hệ thống chỉ báo định lượng ngắn gọn (GDP, HDI, TFP, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh…) để chứng minh các luận điểm “phát triển nhanh và bền vững”.
Phần hạn chế cần nêu sâu hơn về “độ trễ thể chế”, “tư duy nhiệm kỳ”, “văn hóa trách nhiệm”, “chênh lệch vùng miền”, đây là những vấn đề thực tiễn đang thách thức mô hình phát triển.
Nên có một mục riêng đánh giá “vai trò của công tác lý luận, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong đổi mới”, nhất là đóng góp của các viện, trường, hội khoa học.
Về các vấn đề đặt ra và phương hướng giai đoạn mới, cần nhấn mạnh vai trò của đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập tri thức toàn cầu như “trụ cột” của giai đoạn đổi mới tiếp theo. Đề xuất xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập và phát triển bền vững, coi đây là nền tảng tư tưởng - đạo đức - văn hóa của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Cần cụ thể hơn các đột phá chiến lược giai đoạn 2026 - 2045: Thể chế phát triển hiện đại; Nhân lực chất lượng cao, con người phát triển toàn diện; Hạ tầng số và đổi mới sáng tạo; Văn hóa và an sinh xã hội bền vững.
Đề nghị bổ sung nội dung “tổng kết 40 năm đổi mới phải hướng tới xây dựng tư duy lý luận Việt Nam hiện đại - nhân văn - mở”, vừa kiên định mục tiêu XHCN, vừa hội nhập với tinh hoa tư tưởng nhân loại.