Chuyến tàu đưa sứ bộ đầu tiên của Mỹ đến Việt Nam 200 năm trước

Có ý kiến cho rằng do triều Nguyễn bế quan tỏa cảng, khước từ giao thương... nên đã bỏ qua quan hệ thương mại với nước Mỹ vào đầu thế kỷ 19. Sự thật có phải như vậy?

Trong cuốn Buổi đầu quan hệ Mỹ - Việt 1787-1941 (nguyên tác The United States and Vietnam 1787-1941, Đoàn Khương dịch, NXB Văn hóa-Văn nghệ, 2018), tác giả Robert Hopkins Miller (8/9/1927-11/9/2017), nhà ngoại giao Mỹ kỳ cựu có kinh nghiệm ở Việt Nam và Đông Nam Á đã chỉ ra lý do tại sao Việt Nam và Mỹ lại bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ giữa hai nước vào đầu thế kỷ 19.
Chuyến tàu đầu tiên của Mỹ đến Việt Nam
Robert Hopkins Miller cho biết người Mỹ đầu tiên bày tỏ sự quan tâm đến Việt Nam, cụ thể là Đàng Trong [Cochinchine] là Tổng thống thứ 3 của nước Mỹ Thomas Jefferson. Năm 1788, khi còn là Công sứ Mỹ ở Pháp, Jefferson đã dành sự quan tâm đặc biệt của mình tới những giống lúa ở Cochinchine, mà theo ông là nó có thể giúp nước Mỹ thanh toán được các vùng ao hồ tù đọng. Năm 1789, dù rất nỗ lực, song Jefferson không tiếp cận được hạt giống lúa này, vì nó quá khó kiếm.
Chuyen tau dua su bo dau tien cua My den Viet Nam 200 nam truoc
Tổng thống thứ 3 của nước Mỹ Thomas Jefferson. Ảnh tư liệu.
Năm 1802, gia đình Crowninshield, ở Salem, Massachusetts quyết định gửi một con tàu đến Đàng Trong để thử tìm nguồn cung cấp đường cà phê. Con tàu được chọn cho hành trình này là Fame với thuyền trưởng là Jeremiah Briggs. Ngày 21/5/1803, tàu Fame thả neo ở vịnh Turon (Đà Nẵng), đánh dấu một thương thuyền Mỹ thực sự giong buồm vào một cảng ở Việt Nam. Sau đó, được sự giúp đỡ của những người Pháp, Jeremiah Briggs đã đi Huế để xin phép vua Gia Long được buôn bán ở các cảng dọc duyên hải. Nhà vua cho phép, nhưng cũng bày tỏ sự e ngại tàu sẽ dần buôn bán với kẻ thù của nhà vua (nhà vua mới sở hữu vùng đất này khoảng 6 tháng nay).
Chuyen tau dua su bo dau tien cua My den Viet Nam 200 nam truoc-Hinh-2
 Hạ thủy tàu Fame vào năm 1802, tranh của Goerge Ropes. Ảnh tư liệu
Tiếp theo tàu Fame, tàu Franklin của đại úy Hải quân Mỹ Jonh White được ghi nhận là tàu thứ 2 của Mỹ đến Việt Nam. Dù không nói rõ mục đích chuyến đi này, nhưng qua tường thuật của White xuất bản năm 1823 tại Boston, có thể thấy White đến Việt Nam tư cách cá nhân (không đại diện cho chính phủ Mỹ) và với mục đích thương mại, tìm và mang về những hàng hóa có lãi. Theo tường thuật của White, ngày 7/10/1819, tàu đến Sài Gòn. Ngày 30/01/1820, tàu rời Sài Gòn sau 4 tháng nỗ lực tìm kiếm hàng hóa. Sau đó, tàu đến Java lấy thêm hàng cho đủ trọng lượng rồi trở về nước.
Sứ bộ đầu tiên của Mỹ đến Việt Nam và hiệp định thương mại bị bỏ lỡ
Từ năm 1826-1932, John Shillaber, Lãnh sự Mỹ ở Batavia, Đông Ấn thuộc Hà Lan (Indonesia ngày nay) đã liên tục hối thúc Bộ Ngoại giao Mỹ xem xét thúc đẩy các hiệp định thương mại với Thái Lan, Việt Nam và Nhật Bản.
Đề nghị này của Shillaber nhận được hứa hẹn của Bộ Ngoại giao Mỹ. Ngày 5/1/1832, Tổng thống Mỹ Andrew Jackson chỉ định Edmund Roberts (vốn là một chủ buôn thường qua lại vùng biển của Việt Nam) làm “cơ mật phái viên ở vùng biển Ấn Độ”. Ngày 27/1/1832, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Livingston gửi cho Roberts chỉ thị về sứ mệnh bí mật tại Việt Nam. Theo đó, Roberts phải báo cáo càng nhiều thông tin càng tốt về các sản phẩm và việc buôn bán của Việt Nam và tìm cách đàm phán một hiệp định thương mại với quốc gia này.
Ngày 4/1/1833, tàu Peacock chở đặc sứ Edmund Roberts và sứ bộ Mỹ đậu ở Phú Yên (tàu không neo đậu được ở cảng Đà Nẵng do gặp thời tiết xấu). Edmund Roberts đã tiếp các chức sắc và quan cấp tỉnh trên tàu. Sau khi cho biết tàu Peacock do Tổng thống Mỹ phái đi và mang theo lá thư của Tổng thống gửi vua Việt Nam, Edmund Roberts đã nhờ chuyển một bức thư gửi về kinh đô giải thích sứ mệnh của mình.
Chuyen tau dua su bo dau tien cua My den Viet Nam 200 nam truoc-Hinh-3
 Tổng thống Mỹ Andrew Jackson (bên trái) và vua Minh Mệnh (bên phải). Ảnh tư liệu.
Ngày 17/1/1883, 2 viên quan của kinh thành Huế cùng phái đoàn xuống tàu. Theo tường thuật của Edmund Roberts, 2 vị này cho biết bức thư của Roberts gửi tới kinh đô bị lỗi về cách xưng hô, nên vị quan phụ trách thương mại và hàng hải không dám trình lên nhà vua. Hai vị còn cho biết tên nước giờ là Việt Nam chứ không phải là An Nam và được cai trị bởi một vị hoàng đế.
Theo đúng thể thức, vị đặc sứ phải gửi thư cho vị thượng quan phụ trách thương mại, hàng hải đề nghị vị này tâu lên đức vua. Hai viên quan cũng đề nghị được xem bức thư Tổng thống gửi vua Việt Nam có lỗi gì về thể thức hay không… Roberts giải thích rằng, thư của Tổng thống là thư giới thiệu vị đặc sứ với nhà vua và vị đặc sứ sẽ tiến hành đàm phán những mục tiêu cụ thể sau khi đến Huế.
Lời giải thích này hoàn toàn không thỏa đáng và 2 viên quan trên lại tiếp tục quay trở lại những vấn đề cũ. Khi được hỏi về cung cách trong bức thư gửi vị thượng quan, 2 viên quan đã soạn ra một bức thư mẫu cho sứ bộ Mỹ. Tuy nhiên, Roberts cho rằng giọng điệu trong bức thư này khó chấp nhận vì ngoài sự khúm núm về văn phong, ngôn ngữ chung là của kẻ thuộc cấp. Ông ta đã đề nghị tự viết một bức thư khác gửi vị thượng quan, đồng thời khẳng định sẽ sửa chữa theo ý của 2 viên quan nọ.
Tình trạng này cứ diễn ra như vậy suốt phần còn lại của sứ mệnh Robert tại Việt Nam. Robert thì không muốn nước Mỹ chấp nhận sự nhục nhã với những thể thức giao tiếp khúm núm hạ mình, còn các viên quan Việt Nam không muốn hứng chịu cơn thịnh nộ của hoàng đế khi chấp nhận thể thức giao tiếp không phù hợp. Ngày 7/2/1833, các quan triều đình Huế thông báo rằng con tàu phải lên đường trong ngày hôm sau.
Hai bên nâng ly chúc mừng sức khỏe Tổng thống và Hoàng đế. Các quan triều đình Huế rời tàu, chúc tàu thuận buồm xuôi gió và nhanh chóng trở lại. Người Mỹ trả lời họ không mong trở lại và giong buồm lên đường sáng ngày hôm sau (8/2/1833).
Chuyen tau dua su bo dau tien cua My den Viet Nam 200 nam truoc-Hinh-4
 Tàu phương Tây buôn bán ở vùng biển Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Ảnh tư liệu.
Đề cập về việc này, chính sử Đại Nam thực lục chép như sau: Tháng 11, năm Nhâm Thìn (1832) Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (nước này ở Tây dương hoặc gọi là Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma Ly Căn, hoặc gọi là Tân Anh Cát Lợi đều là biệt hiệu của nước ấy) sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách (Edmund Roberts), Đức Giai Tâm Gia (David Geisinger, thuyền trưởng tàu Peacock) đem quốc thư thông thương thuyền ở cửa Vũng Lấm [Vũng Lắm] thuộc Phú Yên. Vua sai Viên ngoại lang Nguyễn Tri Phương, Tư vụ Lý Văn Phức đi hội với quan tỉnh, lên thuyền thiết tiệc, hỏi lý do đến đây làm gì. Họ nói “Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương”. Nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không đúng thể thức.
Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lãnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói: “Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo luật pháp đã định. Từ nay, nếu có buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư bảo họ đi”.
Nhắc đến sứ mệnh bất thành này, trong báo cáo tóm lược của mình, Roberts phán đoán rằng nếu thời tiết thuận lợi hơn tàu đã thả neo ở Đà Nẵng và kết quả đi sứ của ông sẽ tốt hơn. Ông cũng ghi nhận rằng, công việc sẽ có kết quả khi ông thuận theo những “nghi lễ làm mất phẩm giá” ở triều đình Huế.
Ba năm sau, Edmund Roberts và tàu Peacock trở lại Việt Nam để thực hiện cho một nỗ lực đàm phán khác. Phái bộ đến Đà Nẵng ngày 14/5/1836 và dành 8 ngày để chuẩn bị việc đàm phán một hiệp định thương mại với Việt Nam. Tuy nhiên, bệnh tật và cái chết giữa chừng của Roberts đã khiến cho nỗ lực ngoại giao của ông ta thêm một lần nữa bất thành.
Theo Robert Hopkins Miller nguyên nhân dẫn đến nỗ lực bất thành trên là do hai nền văn hóa xa xôi không gặp nhau và do tầm quan trọng của bên này với bên kia vẫn chưa đủ lớn, nên cả Việt Nam và Mỹ đã không vượt qua những trở ngại ban đầu. Roberts cũng không thuyết phục nổi Việt Nam, rằng Mỹ khác với các nước châu Âu, những nước chỉ quan tâm đến chinh phục, lập thuộc địa... Việt Nam cũng coi Mỹ cùng hội cùng thuyền với các nước châu Âu nên chưa sẵn sàng cho mối quan hệ.

Ngắm Việt Nam đầy sức sống qua ống kính cựu binh Mỹ

(Kiến Thức) - Ông Jack van Ommen là cựu nhân viên Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ (MAAG) tại Sài Gòn từ năm 1961-1963. Vào năm 2010, cựu binh Mỹ này đã có một chuyến đi dọc Việt Nam và ghi lại nhiều hình ảnh về mảnh đất từng là chiến trường xưa. 

Một chiếc ca nô gắn cờ Mỹ neo đậu ở cảng Sông Hàn, Đà Nẵng năm 2010. Đây là một hình ảnh minh chứng cho sự bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, theo cảm nhận của cựu binh Mỹ Jack van Ommen. Ảnh: Cometosea.us.
 Một chiếc ca nô gắn cờ Mỹ neo đậu ở cảng Sông Hàn, Đà Nẵng năm 2010. Đây là một hình ảnh minh chứng cho sự bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, theo cảm nhận của cựu binh Mỹ Jack van Ommen. Ảnh: Cometosea.us.

Dấu ấn của Tổng thống Mỹ trong những chuyến thăm chính thức Việt Nam

(Kiến Thức) - Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2 sắp diễn ra tại Hà Nội vào ngày 27 - 28/2 một lần nữa đánh dấu sự có mặt của Tổng thống Mỹ tại Việt Nam. Trước đó, đã từng có 3 cựu Tổng thống Mỹ thăm chính thức Việt Nam và để lại những dấu ấn quan trọng. 
 

Truyền thông và dư luận quốc tế hiện đặc biệt quan tâm tới thông tin Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2 sẽ diễn ra tại Hà Nội vào các ngày 27 - 28/2 tới đây. Kể từ năm 2000 đến nay, các đời Tổng thống Mỹ cũng đã tiến hành các chuyến thăm chính thức Việt Nam và để lại nhiều dấu ấn nổi bật trong quan hệ hai nước.

Cựu Tổng thống Bill Clinton và 4 chuyến thăm Việt Nam

Dau an cua Tong thong My trong nhung chuyen tham chinh thuc Viet Nam
 Chuyến thăm lịch sử năm 2000 của cựu Tổng thống Bill Clinton.
Tổng thống Mỹ có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam là Bill Clinton - Tổng thống thứ 42 của Mỹ. Không chỉ một lần, cựu Tổng thống Clinton thăm Việt Nam 4 lần.

Lần thăm Việt Nam đầu tiên của cựu Tổng thống Clinton vào ngày 17/11/2000. Ông Clinton trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên tới Việt Nam sau 25 năm chiến tranh kết thúc. Chuyến thăm lịch sử này của cựu Tổng thống Clinton đóng góp lớn cho quá trình bình thường hóa quan hệ song phương Việt - Mỹ, tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995 và ký Hiệp định thương mại song phương Mỹ - Việt.

Cùng đi với cựu Tổng thống Clinton trong chuyến thăm Việt Nam này là Đệ nhất phu nhân Hillary Clinton và con gái Chelsea.

Sau khi đến Hà Nội, cựu Tổng thống Clinton đến thành phố TP.HCM và kêu gọi tự do kinh tế cũng như đưa ra nhận định "không ai có thể từ chối cơ hội phát triển của Việt Nam" và cam kết hỗ trợ phát triển 200 triệu USD.

Lần thứ 2 cựu Tổng thống Clinton thăm Việt Nam vào tháng 12/2006. Khi đó, ông thăm Việt Nam với tư cách Chủ tịch Quỹ Bill Clinton trong chuyến thăm các nước châu Á nhằm tăng cường hợp tác theo chương trình phòng chống HIV/AIDS. Trong chuyến đi này, cựu Tổng thống Clinton kêu gọi giới trẻ Việt Nam nên trao đổi nhiều hơn về HIV/AIDS, giảm sợ hãi và tăng thêm hiểu biết về căn bệnh thế kỷ, tránh kỳ thị những người nhiễm căn bệnh này.

Đến tháng 11/2010, ông Clinton có chuyến thăm Việt Nam lần thứ 3 nhân dịp kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Ông Clinton đến Việt Nam với mục đích tăng cường quan hệ và hợp tác song phương Việt - Mỹ trên một số lĩnh vực, bao gồm thương mại, y tế, biến đổi khí hậu và hợp tác an ninh.

Chuyến thăm Việt Nam lần thứ 4 của cựu Tổng thống Clinton là đến Hà Nội ngày 18/7/2014. Chuyến đi này nằm trong chuyến thăm 5 nước châu Á - Thái Bình Dương của ông Clinton nhằm tăng cường hoạt động của Quỹ Clinton do gia đình Clinton sáng lập để giúp chăm sóc, điều trị cho người nhiễm virus HIV trên thế giới, cải thiện y tế, biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế ở khu vực.

Chuyến thăm Việt Nam của cựu Tổng thống George W. Bush năm 2006

Dau an cua Tong thong My trong nhung chuyen tham chinh thuc Viet Nam-Hinh-2
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và phu nhân tiếp đón Cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush cùng phu nhân thăm Việt Nam tháng 11/2006. Ảnh: White House. 

Đây là chuyến thăm đầu tiên của cựu Tổng thống Bush tới Việt Nam và là chuyến thăm Việt Nam thứ hai của một Tổng thống Mỹ kể từ sau chiến tranh. Chuyến thăm Việt Nam này của ông Bush được đánh giá là đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.

Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2006, ông Bush khẳng định Việt Nam là một đối tác quan trọng của Mỹ và hy vọng quan hệ song phương sẽ tiếp tục phát triển trong những vấn đề cùng quan tâm. Ông cũng ca ngợi các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và bày tỏ mong muốn quan hệ song phương phát triển hơn nữa.

Chuyến thăm của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama năm 2016

Từ ngày 17 - 20/11/2006, cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC-14. Đồng hành với ông trong chuyến đi này là Đệ nhất phu nhân Laura Bush.

Dau an cua Tong thong My trong nhung chuyen tham chinh thuc Viet Nam-Hinh-3
Cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama có cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 23/5/2016. Ảnh: CNN. 

Cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama thăm chính thức Việt Nam từ ngày 23 - 25/5/2016. Ông trở thành Tổng thống Mỹ thứ 3 thăm Việt Nam.

Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2016, ông Obama đã có các cuộc gặp quan trọng với lãnh đạo Việt Nam ở Hà Nội và TP.HCM và hội đàm với các lãnh đạo Việt Nam, thảo luận cách tăng cường hợp tác Việt - Mỹ trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, an ninh, những vấn đề khu vực và quốc tế, tầm quan trọng của việc thông qua Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Sau cuộc hội đàm cấp nhà nước, Tuyên bố chung Việt – Mỹ được ký kết thể hiện nhiều nội dung cam kết về tăng cường hợp tác giữa 2 nước trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế - thương mại, văn hóa - giáo dục, an ninh quốc phòng, khắc phục hậu quả chiến tranh, đối phó biến đổi khí hậu; Nhiều văn kiện, dự án quan trọng, quy mô lớn được ký kết.

Cựu Tổng thống Obama cũng có các cuộc gặp với gặp các thành viên Sáng kiến Lãnh đạo Trẻ Đông Nam Á (YSEALI), doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Giải mã lý do nữ quý tộc nhà Đường được mai táng cùng với lừa

(Kiến Thức) - Trong lăng mộ của Cui Shi, nữ quý tộc nhà Đường, tại Tây An, Trung Quốc, các nhà khảo cổ tìm thấy xương của con lừa, một sự việc vô cùng hiếm. Lý do nữ quý tộc này được chôn cùng lừa khi sang thế giới bên kia khiến nhiều người bất ngờ.

Giai ma ly do nu quy toc nha Duong duoc mai tang cung voi lua
 Các nhà khảo cổ phát hiện xương lừa trong lăng mộ nữ quý tộc nhà Đường Cui Shi qua đời năm 878 tại Tây An, Trung Quốc. Theo các chuyên gia, việc phát hiện loài lừa được chôn cất trong lăng mộ của nữ quý tộc Cui Shi nằm ngoài dự đoán. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới