Cách mạng Tháng Tám và cuộc vận động vua Bảo Đại thoái vị 79 năm trước

Với lòng yêu nước, nhận thức đúng đắn cùng hành động khéo léo, Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Khắc Hòe đã góp phần không nhỏ vào việc vận động vua Bảo Đại thoái vị...

Cuộc vận động vua Bảo Đại thoái vị

Trong những ngày tháng lịch sử của Cách mạng tháng Tám cách đây 79 năm, Mặt trận Việt Minh Thừa Thiên Huế không chỉ gấp rút triển khai nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân nổi dậy mà còn coi trọng nhiệm vụ vận động vua Bảo Đại chấp nhận thoái vị, trao trả chính quyền cho nhân dân.

Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế đã cử ông Tôn Quang Phiệt liên hệ với nhà vua thông qua Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Khắc Hòe - người có tư tưởng yêu nước và tiến bộ, thường xuyên gặp gỡ các nhà cách mạng, cũng như trực tiếp làm việc bên cạnh vua Bảo Đại.

Cach mang Thang Tam va cuoc van dong vua Bao Dai thoai vi 79 nam truoc

Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Khắc Hòe và vua Bảo Đại. (Ảnh tư liệu)

Trong hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, ông Phạm Khắc Hoè nhớ lại: “Chia tay anh Phiệt (ông Tôn Quang Phiệt), về đến nhà, tôi liền đi lục soạn mấy cuốn sách lịch sử ra để hiểu rõ hơn những trường hợp của vua Louis XVI nước Pháp, Vua Nikolai II nước Nga và cả các vị vua Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc của Nguyễn Triều…Sau ba ngày đọc sách ôn lại những chuyện cũ và nghe ngóng tìm hiểu tình hình mới trước mắt, tôi thấy mình có đủ lý do làm cho Bảo Đại thấy cần phải thoái vị”.

Trái ngược với đa số cận thần khuyên vua Bảo Đại nên dựa vào Nhật - Pháp, ông Phạm Khắc Hoè đã tranh thủ những lần tiếp xúc để phân tích cho vua thấy thất bại của phát xít Nhật trên thế giới và thắng lợi tất yếu của Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc.

“Chiều hôm ấy (12/8/1945), tôi lên đưa cho Bảo Đại phê chuẩn dự thảo đạo Dụ đổi nội các từ chức thành nội các lâm thời, theo như đề nghị của Trần Trọng Kim. Nhân dịp, tôi nêu lên với Bảo Đại một câu hỏi lửng lơ:

- Chúng tôi không hiểu tại sao không một ai hưởng ứng lời mời của ông Kim về việc thành lập nội các mới cả? Không biết ông ấy có tâu đối chi với Ngài về vấn đề ấy không?

- Theo ông Kim cho biết thì những người ông ta mời đều rất cách mạng, rất tả. Có lẽ điều đó không vừa lòng người Nhật nên họ đã chặn điện lại.

- Tâu, nhưng hai người được mời có mặt ở Huế là ông Tôn Quang Phiệt và ông Bùi Công Trừng cũng đều từ chối cả.

- Thế ông Phiệt có cho ông biết vì sao ông ta từ chối không?

- Tâu. Theo ý ông Phiệt thì trên thế giới Nhật sắp thua đến nơi rồi. Còn trong nước thì khí thế cách mạng của quần chúng mỗi giờ mỗi lên cao, bão táp cách mạng nhất định sẽ nổi lên nay mai.

Thấy Bảo Đại đổi sắc mặt, tỏ vẻ lo âu, tôi bèn nhắc lại cuộc cách mạng Pháp năm 1789 với số phận bi đát của vua Louis XVI, rồi tôi hạ giọng nói một cách nhẹ nhàng cảm động ‘có lẽ Ngài không nên chờ nước đến chân mới nhảy’”.

Nhưng sau cuộc trò chuyện trên, vua Bảo Đại vẫn có ý trông cậy vào quân đội Nhật mong giữ ngai vàng. Điều này khiến ông Phạm Khắc Hoè cảnh giác, tìm cách vận động để đưa vấn đề toàn thể nội các và nhà vua rút lui nhường hẳn quyền lại cho Việt Minh trong cuộc họp nội các ngày 17/8/1945.

Ông Phạm Khắc Hoè còn soạn dự thảo “Chiếu động viên quốc dân” với 3 ý gồm: đoạn một khẳng định tư cách và ý chí của dân tộc ta quyết tâm giữ vững nền độc lập; đoạn hai kêu gọi mọi người ái quốc ra phò vua, giúp nước; đoạn ba có nội dung then chốt “Muốn củng cố nền độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, Trẫm sẵn sàng hy sinh về tất cả các phương diện. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ, Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hy sinh giống như Trẫm”.

“Buổi chiều (17/8/1945), đúng 4 giờ, tôi đưa bản dự thảo Chiếu động viên quốc dân vào lấy chữ ký của Bảo Đại thì ông ta không ký ngay như mọi lần mà miệng cứ lắp bắp đọc đi đọc lại câu ‘Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm Vua một nước nô lệ’. Tôi đâm ra lo…Nhưng cuối cùng Bảo Đại nhún vai một cái nhẹ nhẹ rồi ký bản Chiếu, trao lại cho tôi.

Tôi vô cùng vui mừng phấn khởi. Vì như thế là cuộc vận động thoái vị đã tiến được một bước rất dài, chắc chắn sẽ thành công”.

Những giờ phút lịch sử ở Huế

Dù đã ký vào bản Chiếu động viên quốc dân, Bảo Đại vẫn thắc mắc không biết lãnh tụ Việt Minh là ai, có đồng ý giữ chính thể quân chủ không? Ông Phạm Khắc Hoè đã từng bước giải thích cho Bảo Đại về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc của Việt Minh cũng chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, khéo léo khuyên vua chấp nhận thoái vị.

“Khi được nhà Vua hứa sẵn sàng thoái vị tất cả niềm vui sướng của tôi đều lắng xuống trong tim, trong óc thành một nguồn suy nghĩ tập trung, nó đã đưa tôi đến thảo được một bản Chiếu thoái vị chứa đựng tất cả tình cảm, nguyện hoài bão của tôi đối với thời cuộc lúc đó. Công việc say sưa thích thú này bắt đầu từ chiều 20 tháng 8 và được hoàn thành trong đêm đó…

Trong khi đó thì không khí khởi nghĩa tưng bừng khắp Huế; nhà nào cũng nhộn nhịp may cờ, dán cờ, viết khẩu hiệu: các đoàn thanh niên nam nữ mang gậy gộc, giáo, mác bắt đầu từ nông thôn kéo về thành phố: thanh niên tiền tuyến, bảo an binh và cả lính hộ Thành đều đã ngả theo cách mạng. Huế là một thành phố nhiều người đeo bài ngà nhất trong toàn cõi Việt Nam, mà từ ngày 22 tháng 8, tuyệt đối không thấy một người nào đeo bài ngà đi ngoài phố nữa”.

Cach mang Thang Tam va cuoc van dong vua Bao Dai thoai vi 79 nam truoc-Hinh-2

Nhân dân Thừa Thiên Huế tham gia giành chính quyền và kéo vào cửa Thượng Tứ ngày 23/8/1945. (Ảnh tư liệu)

Soạn xong Chiếu thoái vị, ông Phạm Khắc Hoè đảm nhận vai trò người liên lạc giữa nhà vua và chính quyền Cách mạng. Tới ngày 30/8/1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại được tổ chức ở Ngọ Môn.

Ông Phạm Khắc Hoè hồi tưởng sự kiện lịch sử ấy: "Bảo Đại đọc tờ Chiếu thoái vị một cách xúc động có khi tắt cả tiếng. Bảo Đại đọc xong thì trên kỳ đài cờ vàng của nhà Vua từ từ hạ xuống và lá cờ nên đỏ thắm tươi long lanh năm cánh sao vàng được kéo lên giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô như sấm cắt ngang bởi 21 phát súng lệnh vang lên chào quốc kỳ mới của Tổ quốc hồi sinh.

Tiếng súng lệnh chấm dứt. Bảo Đại hai tay đưa lên trao cho ông Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ chiếc quốc ấn bằng vàng nặng gần mười kilôgam và chiếc quốc kiếm để trong vỏ vàng nạm ngọc. Rồi ông Trần Huy Liệu đọc bản tuyên bố của Đoàn đại biểu Chính phủ, nêu rõ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả của hàng mấy chục năm tranh đấu anh dũng, kiên cường, bền bỉ, của nhân dân cả nước, tuyên bố chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ và nhấn mạnh chính sách của Chính thể dân chủ cộng hoà là đoàn kết mọi tầng lớp quốc dân để giữ nước và dựng nước.

Lắng nghe bản tuyên bố của Đoàn đại biểu Chính phủ xong, mấy vạn đồng bào lại vỗ tay và hô khẩu hiệu vang lên cả một góc trời: “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!”.

Cuối cùng, theo đề nghị của Bảo Đại, Đoàn đại biểu Chính phủ tặng ông ta một huy hiệu Cờ đỏ sao vàng. Ông Nguyễn Lương Bằng cài huy hiệu lên ngực Bảo Đại, từ nay trở thành người công dân Vĩnh Thuỵ, đồng thời ông Cù Huy Cận công bố điều ấy cho đồng bào biết và đề nghị đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thuỵ”.

Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, ông Phạm Khắc Hòe đi theo cách mạng, được Đảng, Bác Hồ giao nhiều trọng trách khác nhau. Ông Phạm Khắc Hòe đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý.

Ảnh hiếm về vua Bảo Đại ở phố núi Pleiku năm 1933

Cùng xem loạt ảnh hiếm về các hoạt động của vua Bảo Đại trong chuyến thăm Pleiku năm 1933, được ghi lại qua ống kính phóng viên Pháp.

Anh hiem ve vua Bao Dai o pho nui Pleiku nam 1933
 Vua Bảo Đại tại tư gia của ông Choisnel (người đứng ngoài cùng bên phải), giám đốc CATECKA - Công ty Nông nghiệp chè và cà phê tỉnh Kon Tum-An Nam, Pleiku năm 1933.

Nhiều góc khuất về cuộc đời Hoàng hậu Nam Phương

Đã có một số sách về Hoàng hậu Nam Phương, nhưng ít thông tin, trong ấn phẩm mới, đã phát lộ nhiều góc khuất về người phụ nữ đặc biệt này.

Đó là “Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại”, do NXB Phụ nữ Việt Nam thực hiện, với lời nhắn cần lưu ý: “Đây không phải là công trình nghiên cứu lịch sử chuyên khảo, mà chỉ là một cuốn tư liệu lịch sử về cuộc đời Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, được thể hiện dưới góc nhìn và lập luận của cá nhân tác giả”, nhưng vẫn được bạn đọc đánh giá là “cuốn sách đầy đủ và thuyết phục nhất về Hoàng hậu Nam Phương. Các tài liệu mới, được sưu tầm, đối chiếu công phu trong sách có vai trò phục dựng và bổ khuyết cho những khoảng trống trong lịch sử về vị Hoàng hậu xinh đẹp, trí tuệ, và còn có bản lĩnh sống vững vàng qua thời cuộc hơn cả Hoàng đế Bảo Đại”.

Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại” của hai tác giả Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thúy viết về con người, cuộc đời Vua Bảo Đại (1913 - 1997) và Hoàng hậu Nam Phương (1913 - 1963) dưới thời triều Nguyễn, trong đó chủ yếu là các thông tin về Hoàng hậu Nam Phương - một người có nhiều điểm hội tụ đặc biệt về “sắc đẹp, nét duyên dáng, lòng nhân từ, trí thông minh - hiện rõ trên nét mặt và toát ra trong từng cử chỉ” mà nhiều người chưa từng biết tới.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong
Vua Bào Đại và Hoàng hậu Nam Phương trong ngày cưới (ảnh tư liệu).

Tác giả Vĩnh Đào (tên đầy đủ: Nguyễn Phước Vĩnh Đào) sinh năm 1942, là cháu của Miên Định (Thọ Xuân Vương), còn Nguyễn Phước Vĩnh Thụy (Vua Bảo Đại) là cháu của Miên Tông (Vua Thiệu Trị). Ông Vĩnh Đào có bằng Tiến sĩ Văn học của Đại học Paris IV - Sorbonne (Pháp), nghiên cứu về ngữ pháp, văn học, và đã viết nhiều biên khảo, tuỳ bút bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Việc là hậu duệ trong hoàng tộc, sống và làm việc ở Pháp, chính là yếu tố khá thuận lợi cho ông trong việc tra cứu tư liệu về Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương.

Hai tác giả Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thúy đã ròng rã suốt 3 năm thực hiện nhiều chuyến đi tới những nơi lưu dấu của Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương ở Việt Nam (từ Sài Gòn tới Tiền Giang, rồi về Thủ Đức, Chợ Lớn, Biên Hòa, lên Đà Lạt, Kon Tum, ra Quy Nhơn, Huế, Hà Nội…) và ở Pháp (những nơi nhà vua, hoàng hậu đã đi qua, sinh sống) để tìm gặp hậu duệ của những người cùng thời, phỏng vấn nhiều nhân chứng trong và ngoài nước, trong đó có cựu thị trưởng làng Chabrignac, để tìm hiểu, đối chứng các tư liệu.

Theo các tác giả, ngày sinh 14/11/1913 của hoàng hậu tính theo âm lịch là 17.10. Tuy nhiên, do sinh cùng năm với vua Bảo Đại, nên triều nhà Nguyễn có thể đã lùi năm sinh của bà từ năm Sửu (1913) thành năm Dần (1914). Trong khi đó, ngày 17.10.1914 (âm lịch) là ngày 4.2.1914 (lịch dương), nên đã dẫn đến sự nhầm lẫn về ngày sinh của Hoàng hậu Nam Phương.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong-Hinh-2

Trong ấn phẩm này, nhiều thông tin mới về Hoàng hậu Nam Phương đã được công bố.

TS Vĩnh Đào cũng cho biết, sau bao vất vả kiếm tìm các nhân chứng và tư liệu về quê quán của Hoàng hậu Nam Phương, nhưng chưa có kết quả khả thi, thì tới tháng 11/2023, khi tìm trong đống hồ sơ hộ tịch lưu trữ trong thư viện số của Trung tâm Văn khố Hải ngoại tại Aix-en-Provence, đã tìm được một văn bản chính thức - tờ khai kết hôn lập tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12/11/1902 giữa chú rể Pierre Nguyễn Hữu Hào (sinh tại làng Tân Hòa, tỉnh Chợ Lớn, cư ngụ tại Sài Gòn) và cô dâu Lê Thị Bình (sinh tại Sài Gòn, cư ngụ tại làng Tân Hòa, tỉnh Chợ Lớn) - những vị thân sinh ra hoàng hậu. Theo các bản đồ vào đầu thế kỷ XX, thì làng Tân Hòa nằm trong địa phận quận 5 ngày nay, và có thể gồm cả khu vực Xóm Chiếu, Khánh Hội. Qua những thông tin trên, có thể xác định rằng Hoàng hậu Nam Phương sinh tại Sài Gòn.

Còn với tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy (sinh năm 1973 tại Lâm Đồng, cử nhân xã hội học, hiện là Hội trưởng Hội Quán các Bà mẹ, từng thực hiện nhiều chương trình trao đổi văn hóa quanh chủ đề “Hoàng hậu Nam Phương - Lụa là muôn thuở” từ năm 2018 đến nay), bà đã chia sẻ:

“Theo dự định ban đầu, cuốn sách chỉ tập trung viết về Hoàng hậu Nam Phương, sau mới bổ sung tư liệu về Vua Bảo Đại, bởi cuộc sống của bà có nhiều nét đặc biệt - là người đầu tiên đi ra khỏi cung cấm, xuất hiện bên cạnh hoàng đế trong những nghi lễ chính thức, những cuộc thăm viếng, còn có những hoạt động riêng về mặt xã hội, y tế, giáo dục…

Về hoạt động xã hội, Hoàng hậu Nam Phương là người rất năng động. Không thể kể hết những trường học, bệnh viện, nhà bảo sanh, trại dưỡng lão, trại người mù, cô nhi viện… bà đã đặt chân đến ở Trung Kỳ, Nam Kỳ và Tây Nguyên. Hoàng hậu có chương trình riêng, không tùy thuộc vào các hoạt động của Vua Bảo Đại, như tháng 3/1935, trong chuyến kinh lý các tỉnh miền Trung: Trong lúc Vua Bảo Đại cùng Khâm sứ Graffeuil thăm nhà thương Kim Long (bệnh viện chuyên trị và ngăn ngừa bệnh ngã nước), Hoàng hậu Nam Phương đã cùng bà Graffeuil ghé thăm nhà thương hủi Quy Hòa, nằm cách Quy Nhơn 8 cây số.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong-Hinh-3

Vua Bảo Đại ngự trên ngai vàng (ảnh tư liệu).

Vào cuối năm 1937, Viện Hàn lâm Y khoa Pháp đã trao tặng Hoàng hậu Nam Phương Huân chương Bạc mạ vàng (Médaille de vermeil) - huân chương cao quý nhất của Viện, tưởng thưởng những cá nhân / tổ chức có công lớn trong việc giúp đỡ người bệnh, giáo dục trị liệu, nghiên cứu y khoa và ngừa bệnh. Năm 1939, bà còn được trao tặng “Bội tinh Y tế công cộng đệ nhất đẳng” - bậc huân chương cao nhất trong lĩnh vực y tế, được thiết lập theo một nghị định ngày 18/2/1938 của chính phủ Pháp.

Ngoài ra, trong các cuộc thăm viếng các cơ sở từ thiện, bệnh viện hay viện mồ côi… hoàng hậu thường lấy tiền riêng góp vào quỹ của cơ sở từ thiện, hoặc trao thẳng cho người nghèo. Khi hoàng hậu tặng tiền cho một tổ chức hay hội đoàn (bằng cách viết ngân phiếu), người ta mới biết được số tiền, nhưng khi tặng trực tiếp, không ai có thể biết hoàng hậu đã chi bao nhiêu.

Khi xảy ra thiên tai, hoàng hậu cũng không bao giờ quên đóng góp cho việc cứu trợ; hoặc khi diễn ra một sự kiện nào đó của triều đình, cũng là dịp để hoàng hậu xuất tiền làm từ thiện - như sau khi hạ sinh Công chúa Phương Mai (năm 1937), hoàng hậu gửi 3.400 đồng đến các hội từ thiện ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong-Hinh-4
Tại buổi giao lưu, tạo đàm ra mắt sách, từ trái sang: TS Vĩnh Đào - tác giả; PGS-TS Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương; Khúc Thị Hoa Phượng - GĐ/Tổng biên tập NXB Phụ nữ Việt Nam và tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy. Ảnh: L.Q.V

Trong một chuyến đi của Henriette Chandel - đặc phái viên tờ Échos de Paris, đến Sài Gòn ở năm 1936, nhằm điều tra về tình hình phụ nữ và nhi đồng tại Đông Dương - đã có dịp trò chuyện với Hoàng hậu Nam Phương tại Huế. Cuộc gặp gỡ đó đã để lại cho nữ ký giả này một ấn tượng sâu sắc và được thuật lại như sau:

“Bà nói rất cần giáo dục người phụ nữ, đó là một trong những điều kiện đầu tiên để bảo vệ trẻ em. Sẽ có biết bao trẻ em được cứu sống nếu người mẹ biết được vài nguyên tắc về vệ sinh. Để giáo dục số đông, người phụ nữ của tầng lớp thượng lưu phải đến với quần chúng và truyền lại những gì họ đã học được. Trên đất nước có nhiều thiên tai này, có biết bao nhiêu mảnh đời đau khổ cần được cứu vớt! Và trước khi nghĩ đến việc chữa trị, cần phải cho họ cơm ăn, áo mặc.

Tôi cảm thấy trong trái tim của hoàng hậu đầy những ưu tư về tình hình xã hội. Thật là kỳ diệu khi nghĩ rằng một con người chỉ mới 20 tuổi được cuộc đời hết sức ưu đãi, mà tinh thần trách nhiệm, ý chí làm vơi sự đau khổ của người khác lại cao đến vậy”.

Còn trên tờ báo Le Soir d’Asie, xuất bản tại Sài Gòn năm 1942, đã viết: “Sắc đẹp, nét duyên dáng, lòng nhân từ, trí thông minh, hiện rõ trên nét mặt của bà, toát ra trong từng cử chỉ. Người phụ nữ Annam lấy bà làm mẫu mực cần nhớ là bà từng khuyên là nên để lên hàng đầu các đức tính về trí tuệ và đạo đức.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong-Hinh-5

Hoàng hậu Nam Phương trong trang phục cung đình (ảnh tư liệu).

Trước hết, hoàng hậu là một người nội trợ và một người mẹ hoàn hảo. Sau khi chiếm được trái tim của mọi người trong nước, hoàng hậu đã được ngưỡng mộ tại Pháp và cả trên thế giới. Từ khi lên ngôi, hoàng hậu luôn luôn nhớ đến nhiệm vụ về mặt xã hội của một “đệ nhất phu nhân” trong đế chế, một tấm gương sáng và một người dẫn đường cho mọi phụ nữ Annam…

Bà không thích nghe nói đến “thi sắc đẹp”, “thi thanh lịch”, “trình diễn áo tắm”… Hoàng hậu quan tâm đến việc đào tạo một lớp tinh hoa mới với những nữ bác sĩ, nữ dược sĩ, nữ luật sư, nữ giáo viên, nữ giáo sư, nữ ký giả…

Đối với hoàng hậu, có một con đường mở ra cho tất cả phụ nữ, đó là vừa giữ nhiệm vụ đầu tiên làm người mẹ, người vợ, đồng thời là bàn tay cứu giúp cho mọi kẻ bất hạnh trên cõi đời này. Chính là tấm lòng bác ái của bà, cũng như lòng ngưỡng mộ trước sắc đẹp của bà, khiến cho hoàng hậu hết sức được lòng dân trong nước, được khâm phục tại Pháp và tại các nước”.

Trong khi đó, vào năm 1949, Toàn quyền tại Đông Dương Jean Decoux đã bình luận: “Trong suy nghĩ của tôi, hình ảnh hoàng đế luôn đi đôi với gương mặt dịu hiền của hoàng hậu, người bạn đường của hoàng đế những lúc vui và những lúc khó khăn. Tôi càng thấy cần phải nói đến hoàng hậu vì bà luôn luôn ảnh hưởng trên hoàng đế theo chiều hướng tốt nhất. Gốc người Nam Kỳ, theo Thiên Chúa giáo, được giáo dục phần lớn tại Paris - nơi bà có nhiều bạn bè, hoàng hậu, theo tôi, là thí dụ tốt đẹp nhất của sự kết hợp hài hòa giữa Đông và Tây mà nước Pháp đã thực hiện tại Nam Kỳ”.

Nhieu goc khuat ve cuoc doi Hoang hau Nam Phuong-Hinh-6
Tại buổi giao lưu, tọa đàm ra mắt sách, từ trái sang: Nhà nghiên cứu giáo dục lịch sử Nguyễn Quốc Vương và hai tác giả Vĩnh Đào, Nguyễn Thị Thanh Thúy. Ảnh: P.N

Xung quanh việc thực hiện ấn phẩm nói trên, phía NXB đã chia sẻ:

"Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương là hai nhân vật lịch sử chiếm được khá nhiều sự quan tâm của công chúng, có lẽ do họ là vua và hoàng hậu cuối cùng của chế độ quân chủ ở Việt Nam, và cũng có lẽ do cuộc đời, con người họ khá đặc biệt.

Đã có nhiều cuốn sách viết riêng về Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, tuy nhiên trong đó có nhiều chi tiết, sự kiện chưa được kiểm chứng và đối chiếu, thậm chí có những chi tiết thêu dệt thành giai thoại.

Những sự kiện, chi tiết ấy, tiếc thay, chính người trong cuộc là Vua Bảo Đại, trong cuốn hồi ký “Con rồng An Nam” xuất bản tại Pháp, vì một lý do nào đó đã không nhắc đến hoặc ghi theo suy nghĩ của riêng ông. Thế nên, xung quanh Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương có nhiều giai thoại, nhiều sự kiện, sự việc được ghi chép khác nhau, thậm chí là bất nhất”.

Trong khi đó, hai tác giả đều có chung quan điểm: Không lặp lại các điều sai lầm, các giai thoại không được kiểm chứng được chép đi chép lại từ trước; Thông điệp chuyển tải và ước muốn lan tỏa những giá trị di sản: Áo dài, văn hóa dưới góc nhìn xã hội học và hướng dẫn du lịch; Cuộc đời của vị hoàng hậu cần được nghiên cứu kỹ, vì đây là một hình mẫu lý tưởng cho các phu nhân của giới chính khách có thể học hỏi trong công tác thiện nguyện hay xuất hiện trước truyền thông.

Dù vậy, trong buổi giao lưu ra mắt sách vừa được tổ chức tại Hà Nội, cũng đã có bạn đọc băn khoăn về vài chi tiết liên quan tới lịch sử chưa xác thực. Về việc này, phía các tác giả đã ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu và đại diện phía NXB cũng đã hứa hẹn, nếu tái bản, sẽ chỉnh sửa phù hợp.

Chiêm ngưỡng đồ quý của vua Bảo Đại ở phố núi Đà Lạt

Tòa dinh thự đặc biệt này vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật gắn với cuộc sống của vua Bảo Đại cùng Nam Phương hoàng hậu và các hoàng tử, công chúa ở Đà Lạt...

Chiem nguong do quy cua vua Bao Dai o pho nui Da Lat
 Nằm ở số 1 đường Triệu Việt Vương, thuộc phường 4 thành phố Đà Lạt, Dinh 3 Đà Lạt là nơi nghỉ hè của gia đình vua Bảo Đại từ năm 1918-1945, và là nơi cư trú chính của vị cựu hoàng từ năm 1949– 1954. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới