Cách đặt tên trong hoàng gia triều Nguyễn qua thơ vua Minh Mạng

Con cháu hoàng gia triều Nguyễn đều được đặt tên theo một bài thơ do vua Minh Mạng sáng tác.

Vua Minh Mạng (1791 - 1841) có tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, ông là con thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi năm 1820, trị vì triều Nguyễn đến năm 1841. Sau khi đăng quang, ông lấy niên hiệu là Minh Mạng, quốc hiệu nước ta thời Minh Mạng có tên là Đại Nam.

Vua giỏi trị nước, thơ văn

Được biết đến là ông vua giỏi trị nước của triều Nguyễn, dưới thời của mình, vua Minh Mạng đã xây dựng được quốc gia Đại Nam hùng mạnh bậc nhất trong khu vực. Để giúp đất nước hùng cường, vua hết sức nghiêm khắc với bản thân, dòng tộc và triều đình. Đặc biệt, trong việc trị tội những viên quan tham ô và nhũng nhiễu nhân dân.

Ngoài tài kinh bang tế thế, vua Minh Mạng cũng nổi tiếng hay thơ. Sinh thời vua đã làm cả nghìn bài thơ, được tập hợp, in trong Ngự chế thi. Trong đó, có nhiều bài đã được khắc trên các di tích ở Huế như điện Thái Hòa, Đại Cung môn, Ngọ Môn, lăng Minh Mạng…

Điểm nổi bật trong thơ Minh Mạng là ông làm thơ chủ yếu là để thể hiện ý chí của mình, như chính ông từng chia sẻ: "Thơ Trẫm làm không cần khéo léo, chỉ luôn miệng ngâm ra để nói chí mình thôi. Những bài ban cho ấy đều nói về việc kính Trời lo dân, mong tạnh cầu mưa, để các khanh biết ý Trẫm, không phải vụ lời văn hoa mà đua hay với văn sĩ đâu".

Đúng như quan đại thần Phan Bá Đạt từng trả lời khi được vua Minh Mạng nhận xét về thơ văn của ông với thơ của vua Lê Thánh Tông rằng: "Thơ của Trẫm so với thơ vua Lê Thánh Tông thế nào?". Phan Bá Đạt tâu: "Thơ vua Thánh Tông phần nhiều chỉ cốt điêu luyện; còn như thơ của Thánh thượng làm, thì lấy ngay tình cảnh mà tả ra, cốt để phát minh đạo trị nước, lời lẽ thể cách lại thấy hùng hồn". Vua nói: "Vua tôi rỗi rãi, cùng nhau làm thơ không những để cùng mua vui, mà có khi cũng để ngụ ý khuyên răn nữa, chứ chẳng phải lấy thơ để làm khí cụ chính trị đâu".

Minh Mạng còn được biết đến là ông vua có nhiều con nhất trong số các vị vua nước Việt. Tổng cộng ông có 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.

Để đặt tên cho con cháu hoàng thất và hy vọng về một vương triều trị vì xuyên suốt hàng nghìn năm, vào khoảng năm 1823, vua Minh Mạng đã sáng tác cho con cháu trực tiếp của mình bài thơ "Đế hệ thi" và mỗi người anh em của mình một bài "Phiên hệ thi" để dùng đặt tên lót cho con cháu hoàng gia.

Cach dat ten trong hoang gia trieu Nguyen qua tho vua Minh Mang

Chân dung vua Minh Mạng. Ảnh: Bảo tàng Hà Tĩnh.

"Đế hệ thi" và "Phiên hệ thi"

Mục đích của vua Minh Mạng khi sáng tác những bài thơ này nhằm phân biệt thật rõ ràng dòng dõi của vua với dòng dõi các phiên vương. Đây cũng là một trong những cách để chống lại việc giành giật ngôi báu trong nội bộ hoàng thất triều Nguyễn.

Triều Nguyễn bắt đầu bằng đời chúa Nguyễn Hoàng, đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, trong tên con cháu luôn có chữ Phúc. Khi bài thơ "Đế hệ thi" và "Phiên hệ thi" của vua Minh Mạng được áp dụng, ngoài chữ Phúc, tên con cháu hoàng gia triều Nguyễn sẽ có thêm một chữ lót nữa. Và chữ lót này sẽ được lấy từ 2 bài thơ trên của vua Minh Mạng.

Theo sách "Chín đời chúa mười ba đời vua triều Nguyễn", bài thơ "Đế hệ thi" được sáng tác theo thể Đường luật gồm 4 câu thơ: Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh/Bảo Quí Định Long Trường/Hiền Năng Kham Kế Thuật/Thế Thụy Quốc Gia Xương.

Từ bài thơ trên, con cháu dòng chính của vua sẽ có chữ lót tuần tự qua các đời theo thứ tự chữ viết. Theo đó: Các con cháu của vua Minh Mạng sẽ lót chữ Miên vào tên như Nguyễn Phúc Miên Tông (vua Thiệu Trị), Nguyễn Phúc Miên Thẩm (Tùng Thiện vương), Nguyễn Phúc Miên Định (Thọ Xuân vương)…

Cháu nội vua sẽ lấy tên lót chữ Hồng để đặt tên như Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (vua Tự Đức), Nguyễn Phúc Hồng Y (Thoại Thái vương), Nguyễn Phúc Hồng Cai (Kiên Thái vương).

Thế hệ tiếp theo (con vua Tự Đức) sẽ được lấy chữ Ưng để đặt tên như Nguyễn Phúc Ưng Chân (vua Dục Đức), Nguyễn Phúc Ưng Đăng (vua Kiến Phúc), Nguyễn Phúc Ưng Lịch (vua Hàm Nghi)…

Tiếp nữa là chữ Bửu như Nguyễn Phúc Bửu Đảo (vua Khải Định), Nguyễn Phúc Bửu Lân (vua Thành Thái)… Tiếp đến con của vua Khải Định hay vua Thành Thái sẽ dùng chữ Vĩnh để đặt tên như Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại)…

Rõ ràng, vua Minh Mạng đã dày công sáng tác một bài thơ vừa dùng để đặt tên con cháu, vừa hy vọng triều Nguyễn của ông có thể trường tồn. Tuy nhiên, khi bài thơ 4 câu mới chỉ dùng hết câu thơ đầu tiên thì triều Nguyễn đã chấm dứt.

Ngoài "Đế hệ thi", vua Minh Mạng còn sáng tác những bài thơ "Phiên hệ thi" cho anh em của ông như bài "Anh Duệ hệ" dùng cho con cháu hoàng tử Cảnh, "Kiến An hệ" dành cho con cháu hoàng tử Nguyễn Phúc Đài, "Định Viễn hệ" cho Định Viễn quận vương, "Diên Khánh hệ" cho Diên Khánh vương Nguyễn Phúc Tấn, "Điện Bàn hệ" dành cho con cháu hoàng tử Nguyễn Phúc Phổ.

"Thiệu Hóa hệ" cho Quận vương Nguyễn Phúc Chẩn, "Quảng Oai hệ" cho Quảng Oai công Nguyễn Phúc Quân, "Thường Tín hệ" cho Quận vương Nguyễn Phúc Cự, "An Khánh hệ" cho An Khánh công Nguyễn Phúc Quang, "Từ Sơn hệ" cho hoàng tử thứ 13 Từ Công Sơn.

Giải mã về chữ "Phúc" được dùng để đặt tên lót cho con cháu hoàng gia triều đại này, sách "Chín đời chúa mười ba đời vua triều Nguyễn" có chép về giai thoại liên quan.

Theo đó, bà Nguyễn Thị - vợ chúa Tiên Nguyễn Hoàng một đêm nằm mơ thấy có một tờ giấy đề chữ "Phúc" bay từ trên trời rơi xuống. Bấy giờ, bà đang mang thai, ai cũng bảo đứa trẻ được sinh ra nên đặt tên là "Phúc".

Thuận ý, song bà Nguyễn Thị nghĩ "nếu đặt tên là Phúc thì chỉ một mình nó được hưởng lộc, chi bằng lấy chữ Phúc đó đặt tên lót để con cháu từ đó ai cũng được hưởng phúc lộc trời ban". Vậy là, từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hậu duệ con cháu triều Nguyễn đều lấy chữ Phúc làm tên lót.

Kinh ngạc lời tiên tri linh nghiệm về Hoàng thái hậu cuối cùng Việt Nam

Cuộc đời của Đức Từ Cung Đoan Huy Hoàng thái hậu trải qua đủ sóng gió. Số phận bà ứng với lời tiên tri linh nghiệm của một ông thầy địa lý... 

Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam
Đức Từ Cung Đoan Huy Hoàng thái hậu là thân mẫu vua Bảo Đại và là Hoàng thái hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Cuộc đời bà gắn chặt với những thăng trầm của triều đại nhà Nguyễn. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-2
 Đức Từ Cung tên thật là Hoàng Thị Cúc, sinh năm 1890. Gia đình bà tuy có cha là quan tri huyện nhưng có cuộc sống rất khó khăn.
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-3
 Sau này, vì gia cảnh khốn khó nên bà được “tiến” vào cung làm thị nữ hầu hạ cho hai vợ góa của vua Đồng Khánh là bà Thánh cung Nguyễn Thị Nhàn và bà Tiên cung Dương Thị Thục.
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-4
 Tại đây, duyên phận đã giúp bà gặp được Phụng hóa công Nguyễn Phước Bửu Đảo (vua Khải Định sau này), là con trai cả của vua Đồng Khánh. Vẻ ngoài nhu mì, hiền lành của bà đã khiến hoàng tử rung động.
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-5
Năm 1913, bà hạ sinh hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này), người con duy nhất của vua Khải Định. Mặc dù sinh hoàng tử nhưng bà không được nuôi con. Vĩnh Thụy được Tiên Cung Thái hậu đón về cung, tự chăm sóc và nuôi nấng. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-6
Năm 1916, bà Hoàng Thị Cúc được vua phong là Huệ tần, tiếp đến là Huệ phi, bậc thứ hai (nhị giai phi) trong cửu giai 9 bậc mà các vua triều Nguyễn phong cho các phi tần của mình. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-7

Sau khi vua Khải Định băng hà, vua Bảo Đại lên ngôi tôn phong cho mẹ mình là Đoan Huy Hoàng thái hậu, người dân Huế tôn kính gọi bà là Đức Từ Cung hay Đức Từ.

Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-8
Theo sử liệu, sinh ra trong gia đình quan lại cấp thấp, hoàn cảnh khó khăn nhưng bằng sự chịu khó, đức tính cần cù, Đức Từ Cung không ngừng phấn đấu rèn luyện cả chữ Hán, Pháp văn và Quốc ngữ, cùng với các nghi lễ, văn hóa ứng xử cung đình và cả trên trọng trách mà bà đảm nhiệm. Cuộc đời bà gắn liền với câu chuyện truyền miệng mang màu sắc tâm linh. Chuyện kể rằng, thời xưa, ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên -Huế, có một ông thầy địa lý đã nhìn mộ ông tri huyện Hoàng Trọng Tích mà phán rằng "Họ này sẽ phát hoàng hậu". 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-9
Ai nghe xong câu ấy cũng cười, coi đấy là lời phán bừa. Ai ngờ, sau đó, con gái ông huyện lại trở thành Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn, tức Đức Từ Cung. Ở ngôi vị Hoàng thái hậu cao sang, nhưng Đức Từ Cung vẫn sống một cuộc đời bình dị, gạt bỏ những thị phi để bảo vệ danh dự cho hoàng gia, gìn giữ gia phong cho "đệ nhất gia đình" của vua Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu.
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-10
Lúc triều đình nhà Nguyễn cáo chung, vua Bảo Đại lưu vong nơi xứ người, Đức Từ Cung vẫn "neo giữ" cả thể xác và tâm hồn ở Huế. Bà tự bỏ tiền túi để sửa chữa Thái Miếu, Hưng Miếu, cùng các tôn lăng của các thành viên hoàng gia triều Nguyễn. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-11
Ngoài ra, Đức Từ Cung còn được đánh giá là có nhiều công lao trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam vào đầu thập niên 1930. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-12
Bà duy trì các hoạt động cúng bái, lễ nghi nơi tôn miếu và lăng tẩm các vị vua Nguyễn. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-13
 Đặc biệt, nhờ những nỗ lực của bà mà đoàn Ba Vũ - đoàn ca múa cung đình thời Nguyễn được duy trì cho đến ngày hòa bình lập lại. Nhờ vậy mà Huế mới giữ được một di sản văn hóa cung đình.
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-14
Những năm tháng cuối đời bà lại trở về cuộc sống cô đơn và nghèo khó, không có con cháu bên cạnh. Nhưng dù cuộc sống khó khăn, Đức Từ Cung vẫn làm tròn phận sự của mình với tổ tiên nhà Nguyễn cho đến giây phút cuối cùng. 
Kinh ngac loi tien tri linh nghiem ve Hoang thai hau cuoi cung Viet Nam-Hinh-15

Đức Từ Cung mất ngày 3/10/1980, thọ 91 tuổi. Lăng mộ bà được xây cất ở làng Dương Xuân (Huế), cạnh lăng vua Đồng Khánh và vua Tự Đức. 

Vua Thiệu Trị nhà Nguyễn tinh thông đồ cổ, quần thần ngưỡng mộ

Không chỉ phải thông thạo kinh, sử... nhiều vị vua Việt cũng tinh thông đồ cổ, để lại nhiều câu chuyện thú vị cho đời sau.

Điển hình như vua Thiệu Trị của nhà Nguyễn là người có khả năng đánh giá sâu về nghiên cổ. Sử chép rằng vào mùa Đông năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) có người đem dâng vua cái nghiên mực cổ được mô tả là "cách pha chế có vẻ cổ kính, mộc mạc, rõ hệt là một tấm ngói âm dương". Đầu nghiên có bài minh:

"Kỳ sắc ôn nhuận,

Ảnh hiếm có về vua Khải Định trong cuốn sách cổ của Pháp

Cùng xem những hình ảnh về vua Khải Định được in trong sách ảnh "Annam 1919 - Đông Dương thuộc Pháp" (Annam 1919 - L'Indochine française), xuất bản tại Paris năm 1919.

Anh hiem co ve vua Khai Dinh trong cuon sach co cua Phap
Chân dung vua Khải Định, người ở trên ngai vàng nhà Nguyễn từ năm 1916-1925. Ảnh: Bunum.univ-cotedazur.fr.

Đọc nhiều nhất

Tin mới