Ai là người đầu tiên dịch sắc lệnh Hoàng Sa?

Ít ai biết người đầu tiên phát hiện ra sắc lệnh của vua Minh Mạng phái các binh phu ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa lại là ông đồ trên đảo Lý Sơn...

Bởi một nỗi niềm riêng khó nói, cụ chôn chặt bí mật trong mình 10 năm từ năm 1999 đến năm 2009, kể từ khi cụ tiếp xúc với tờ sắc lệnh quý ở nhà thờ họ Đặng trên đảo Lý Sơn, bây giờ là báu vật quốc gia. Đến tận ngày nay, sau tròn 14 năm mới “chịu” thừa nhận.
Năm 2009, trong lễ khao lề ở Lý Sơn, chính TS. Nguyễn Đăng Vũ – giám đốc Sở VH- TT&DL Quảng Ngãi đã nói ra chuyện này, nhưng cụ là người ẩn danh lui vào hậu trường chuyện dần quên lãng.
“Ông Dương Quỳnh chính là người phát hiện và dịch đầu tiên tờ sắc lệnh phái binh phu đi Hoàng Sa trong các giấy tờ ở gia phả nhà họ Đặng. Đó là bản dịch tốt, sát nghĩa và hay nhất. Sau này, TS Nguyễn Xuân Diện dịch bản chính thức cũng phải tham khảo và nhờ ông Quỳnh tư vấn” - TS. Vũ khẳng định.
Đã 94 tuổi, cụ Dương Quỳnh đọc tờ sắc lệnh (photo) vẫn không cần đeo kính. Ảnh: Nam Cường.
 Đã 94 tuổi, cụ Dương Quỳnh đọc tờ sắc lệnh (photo) vẫn không cần đeo kính. Ảnh: Nam Cường.
Duyên tiền định
Lý Sơn những ngày biển động, từng con sóng ầm ào xô vào vách đá núi sừng sững, tung bọt trắng xóa. Thật lạ, khi bước hẳn vào nhà cụ Dương Quỳnh như lạc vào thế giới khác. Thanh bình tịch mịch. Căn nhà đúng như phong thái của chủ nhân. Dân đảo tôn kính gọi cụ là một thầy Quỳnh, cụ chỉ lắc đầu cười hiền: Tôi chỉ là người suốt ngày đọc sách, trồng cây.
Vẻ mình triết uyên thâm ẩn sâu dưới đôi mắt buồn và mái tóc bạc phơ. 94 tuổi, sống vắt qua hai thế kỷ, đời cụ trải qua vạn thăng trầm, nếm ngàn đau khổ, cụ vẫn chỉ lắc đầu cười, bỏ tất cả sau lưng.
“Đó là một cơ duyên tiền định. Không ai cắt nghĩa được”- thong thả chế trà nóng, cụ kể. Cụ với tộc họ Đặng cùng ở đảo Lý Sơn mà lại chưa hề ghé qua thăm nhau mặc dù danh tiếng Dương Quỳnh thông tuệ Hán văn, tinh tường tiếng Pháp, đọc gia phả làu làu. Cơ duyên đó là năm 1982, cụ Quỳnh cùng cả nhà rời đảo vào đất Long Thành (Đồng Nai) làm kinh tế mới. Ở đó, cụ gặp lại một người học trò từng học tại nhà ở Lý Sơn khi xưa, tên Đặng Như Tri, bây giờ là sư thầy Thích Giải Thiện ở chùa Huệ Minh. Đôi bên qua lại thăm nhau, cụ gặp anh trai của sư Thích Giải Thiện là ông Đặng Tôn, thành ra thân thiết.
Bẵng mấy năm sau, thời gian này cụ cùng gia đình về lại Lý Sơn an cư, vẫn hay qua lại với ông Đặng Tôn, trà dư tửu hậu. Năm 1999, đúng tháng 4, như thông lệ gia tộc, họ Đặng lại mở tàng thư dòng tộc, rải rác công bố từng phần. Ông Đặng Văn Siểm (người được nhắc tới trong sắc lệnh), kể: Gia tộc họ Đặng có một chiếc tráp, khóa cẩn thận. Tháng 3/1979, có một người xưng của nhà nước đến gom hết cả gia phả, sắc lệnh của 13 họ tộc trên đảo. Ai cũng nộp, riêng họ tộc Đặng bởi một lời dặn của ông nội tui là Đặng Văn Ngạc, mất năm 1939, rằng trong chiếc hộp có đồ vật rất quý giá, muốn mở hộp phải có đủ chức sắc trong tộc, 20 năm mở một lần “vào những năm lẻ có đuôi số 9".
Năm 1999, cụ Quỳnh được ông Đặng Tôn mời đến, trước sự chứng kiến của gia tộc, dịch tiếp một phần gia phả và các loại giấy tờ đọc trong tráp. “Lẫn trong giấy tờ, tôi thấy có một tờ lệnh, đóng mộc đỏ thời vua Minh Mạng, lại thấy nhắc đến Hoàng Sa. Tôi biết ngay, đó là vật quý, là bảo ngọc quốc gia” – đến tận hôm nay, sau 14 năm, nhắc lại chuyện này, cụ Quỳnh vẫn thảng thốt.
Sắc lệnh phái binh phu đi Hoàng Sa ở nhà thờ họ Đặng. Ảnh: Nam Cường.
 Sắc lệnh phái binh phu đi Hoàng Sa ở nhà thờ họ Đặng. Ảnh: Nam Cường.
Ngay đêm đó, cụ Quỳnh ngồi trước án hương tộc Đặng, dưới ánh đèn mờ tỏ, rành rọt phiên âm và dịch nghĩa của tờ sắc lệnh. Sau đó, cụ viết lại cẩn thận, dặn họ Đặng: “Cái này rất quan trọng, ảnh hưởng đến sinh mệnh, cương thổ quốc gia, có thể là một bằng chứng vô cùng quan trọng sau này. Phải giữ gìn cẩn mật”.
Cụ Dương Quỳnh nhớ lại, kể từ năm 1999, khi biết có báu vật trên đảo, cụ lại phải dặn lòng, chuyện cơ mật quan trọng không được tiết lộ. Một người từng trải trước biến cố cuộc đời, cụ hiểu, lúc nào nên nói và nói lúc nào. “Nhưng tôi biết, rồi sẽ có một ngày quốc gia cần đến nó”. Qủa thật, tiên đoán của cụ Quỳnh không sai. Năm 2009, họ Đặng trình lên huyện thông báo cho tỉnh, TS Nguyễn Đăng Vũ lặn lội ra Lý Sơn, rồi các bộ ban ngành .. cùng vào cuộc. Sắc lệnh được đem vào đất liền sau đó, trong bóng tối cụ Quỳnh cười mãn nguyện. Cũng cần phải nhắc lại một chút câu chuyện rước sắc lệnh vào năm 2009, công tác an ninh được tuyệt đối bảo đảm. Sắc lệnh được bỏ vào một vali an toàn, không cháy, không thấm nước. Đích thân TS. Vũ ôm vali , ngồi phòng riêng trên tàu cao tốc, đội an ninh vây quanh bảo vệ..
Trầm tích Lý Sơn
Cụ Dương Quỳnh sinh ra và lớn lên ở Lý Sơn, từ thuở nhỏ thông minh hiếu học, tiếng Pháp đọc làu làu. Sau này, chữ Nho, Hán văn với cụ như là lẽ sống. Là thầy giáo ở đảo, cụ được người dân kính trọng. Biến cố thời cuộc, năm 1975 cụ nghỉ hưu, chuyên tâm vào việc sưu tầm sách cổ và tìm đến các tộc họ dịch gia phả. Từ đó, cụ phát hiện được nhiều báu vật quốc gia còn lưu lạc trong nhân gian trên hòn đảo này. Năm 1979, trong một lần dịch gia phả tộc họ Nguyễn, cụ phát hiện những tờ khế quan trọng bằng chữ Hán. Đó chính là khế bán đất của tộc họ Nguyễn để lo chuyện sắm thuyền, lương thực cho bình phu ra Hoàng Sa.
Cụ Quỳnh kể, nhiều chuyện lâu nay cụ chôn chặt trong lòng, thấy ấm ức vì không nói ra được. Cụ dịch tất thảy gia phả, sắc lệnh, giấy tờ... của 7 tộc họ trên đảo Lý Sơn mà chỉ còn tộc Đặng là có sắc lệnh, tộc Nguyễn có giấy họp hương chức bán đất, còn lại mất cả. “Năm đó, tức 1979, dân Lý Sơn chứng kiến một người tự xưng là nhà báo gì đó ở nước ngoài, người Trung Quốc đi thu mua và lùng hết các sắc lệnh, giấy tờ liên quan đến Hoàng Sa. Tôi đã linh cảm có chuyện không lành. May mắn thay, tộc họ Đặng vẫn còn giữ được”.
Cụ Quỳnh có tất cả 11 người con, hai đời vợ (vợ đầu mất 1965). Con cháu cụ giờ thành đạt khắp nơi, từ Quảng Ngãi đến Tây Nguyên, Sài Gòn. Cụ vẫn ở đảo Lý Sơn với một người cháu nội đang đi biển. “Con thứ 7 là Dương Quang Thụy đi biển, bị Trung Quốc bắt, thua lỗ triền miên. Bệnh mà chết. Cháu tôi giờ cùng đi biển”.
“Thầy Quỳnh” giờ như của hiếm còn sót lại của đảo Lý Sơn, một hòn đảo còn chất chứa bao sự u minh, bao chứng tích còn lưu lạc. Không ai biết được, tôi hỏi tâm trạng cụ thế nào khi cầm sắc lệnh có dấu mộc đỏ của vua Minh Mạng ở nhà họ Đặng, cụ chỉ khẽ bảo: giật mình thảng thốt nhưng rồi lại nghĩ, cũng là hợp lý. Câu chuyện hùng binh Lý Sơn đi Hoàng Sa truyền miệng hàng trăm năm nay, chắc chắn là có thật và ở Lý Sơn, phải có cái gì đó lưu lại làm bằng chứng. Cụ lại cười, nụ cười của một bậc hiền minh…
Cụ Dương Quỳnh kể, khi ra đảo Lý Sơn, TS. Nguyễn Xuân Diện cùng trò chuyện với nhau về một vài chữ còn chưa rõ. Ví như câu “do kim san đội nhị danh”. Có người hiểu là hai người canh giữ súng. Nhưng cụ nói, hồi đó đi tiểu điếu thuyền (thuyền cá nhỏ), làm sao có súng thần công. Bởi thế, chữ “san” hiểu là chum hoặc nồi. Vì thế, đây là hai người nuôi quân.

Ngắm con kênh đào lớn nhất lịch sử phong kiến Việt Nam

(Kiến Thức) -  Ý nghĩa lịch sử của kênh Vĩnh Tế là không thể phủ nhận. Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng.

Nằm trên địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, kênh Vĩnh Tế là con kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế đoạn chảy qua thành phố Châu Đốc.
 Nằm trên địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, kênh Vĩnh Tế là con kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế đoạn chảy qua thành phố Châu Đốc.

Loạt ảnh: Khoảnh khắc xót xa nhất trong lịch sử loài người

(Kiến Thức) - Đức Quốc xã giết chết 50.000 người ở trại tập trung Bergen-Belsen và chôn họ trong ngôi mộ tập thể là một trong những bức ảnh ám ảnh nhân loại.

Nhiếp ảnh gia H.S. Wong đã chụp ảnh một em bé Thượng Hải ngồi bên cạnh đống đổ nát trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh Trung - Nhật năm 1937. Quân đội Nhật Bản đã đánh bom nhầm vào một nhà ga của thành phố khiến 1.500 người thiệt mạng.
 Nhiếp ảnh gia H.S. Wong đã chụp ảnh một em bé Thượng Hải ngồi bên cạnh đống đổ nát trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh Trung - Nhật năm 1937. Quân đội Nhật Bản đã đánh bom nhầm vào một nhà ga của thành phố khiến 1.500 người thiệt mạng.

Ảnh hiếm: Tư lệnh Giáp Văn Cương trong chiến dịch CQ-88

(Kiến Thức) - Sự giản dị và lòng quyết tâm của Tư lệnh Giáp Văn Cương được khắc họa qua loạt ảnh chụp tháng 5/1988.

Sự nghiệp của Đô đốc Giáp Văn Cương (13/9/1921 - 23/3/1990) nổi bật với vai trò Tư lệnh trong chiến dịch CQ-88 (Bảo vệ Chủ quyền năm 1988 tại quần đảo Trường Sa).
 Sự nghiệp của Đô đốc Giáp Văn Cương (13/9/1921 - 23/3/1990) nổi bật với vai trò Tư lệnh trong chiến dịch CQ-88 (Bảo vệ Chủ quyền năm 1988 tại quần đảo Trường Sa).

Những người lính trẻ đóng quân ở Trường Sa những năm cuối thập kỷ 1980 sẽ nhớ mãi hình ảnh một vị tướng già giản dị và gần gũi, với sự ân cần và tận tụy của một người cha.
 Những người lính trẻ đóng quân ở Trường Sa những năm cuối thập kỷ 1980 sẽ nhớ mãi hình ảnh một vị tướng già giản dị và gần gũi, với sự ân cần và tận tụy của một người cha. 

Phía sau sự mộc mạc ấy là những quyết định táo bạo và sáng suốt, giúp chủ quyền đất nước được bảo toàn trong những thời khắc lịch sử khó khăn.
 Phía sau sự mộc mạc ấy là những quyết định táo bạo và sáng suốt, giúp chủ quyền đất nước được bảo toàn trong những thời khắc lịch sử khó khăn.

Từ năm 1984, do tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến xấu, Tướng Giáp Văn Cương đã được Bộ Quốc phòng điều động làm Tư lệnh Hải quân lần thứ hai (lần đầu từ năm 1977-1980).
 Từ năm 1984, do tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến xấu, Tướng Giáp Văn Cương đã được Bộ Quốc phòng điều động làm Tư lệnh Hải quân lần thứ hai (lần đầu từ năm 1977-1980).

Trong 2 năm 1986-1987, một mặt, ông yêu cầu bộ phận Tác chiến soạn thảo gấp kế hoạch và phương án phòng thủ Trường Sa, mặt khác đề xuất với Trung ương kế hoạch bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và thềm lục địa phía Nam. Kế hoạch của ông đã được chấp thuận.
 Trong 2 năm 1986-1987, một mặt, ông yêu cầu bộ phận Tác chiến soạn thảo gấp kế hoạch và phương án phòng thủ Trường Sa, mặt khác đề xuất với Trung ương kế hoạch bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và thềm lục địa phía Nam. Kế hoạch của ông đã được chấp thuận. 

Đầu năm 1988, xác định rõ "Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng Hải quân", toàn quân chủng đã bước vào chiến dịch CQ-88 với ý chí và quyết tâm mạnh mẽ.
 Đầu năm 1988, xác định rõ "Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng Hải quân", toàn quân chủng đã bước vào chiến dịch CQ-88 với ý chí và quyết tâm mạnh mẽ.

Tướng Giáp Văn Cương đã ra lệnh: "Nhanh chóng dốc toàn lực, đặc biệt là Công binh, ra Trường Sa để tăng cường, củng cố tất cả đảo nổi đảo chìm mà quân dân Việt Nam đang đồn trú và sinh sống bao đời nay".
 Tướng Giáp Văn Cương đã ra lệnh: "Nhanh chóng dốc toàn lực, đặc biệt là Công binh, ra Trường Sa để tăng cường, củng cố tất cả đảo nổi đảo chìm mà quân dân Việt Nam đang đồn trú và sinh sống bao đời nay".

Đối với những đảo chìm chưa có quân đồn trú, ông yêu cầu “Kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo, nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi”. Từ mệnh lệnh này, sáng 14/3/1988, con tàu HQ-505 đã lao vượt qua làn đạn đại bác, ủi thẳng lên đảo Cô Lin, giữ vững chủ quyền Việt Nam.
 Đối với những đảo chìm chưa có quân đồn trú, ông yêu cầu “Kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo, nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi”. Từ mệnh lệnh này, sáng 14/3/1988, con tàu HQ-505 đã lao vượt qua làn đạn đại bác, ủi thẳng lên đảo Cô Lin, giữ vững chủ quyền Việt Nam.

Với thành quả của chiến dịch CQ-88, trong năm 1988, ông được phong làm Đô đốc đầu tiên và cũng là duy nhất của Hải quân Việt Nam cho đến năm 2011 (người thứ hai nhận vinh dự này sau ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến).
 Với thành quả của chiến dịch CQ-88, trong năm 1988, ông được phong làm Đô đốc đầu tiên và cũng là duy nhất của Hải quân Việt Nam cho đến năm 2011 (người thứ hai nhận vinh dự này sau ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến).

Hầu như không ai biết rằng, vào thời điểm thực hiện chiến dịch CQ-88, Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ còn 1/3 dạ dày sau ca mổ năm 1980 và mang trong người một căn bệnh hiểm nghèo. Hai năm sau, ông đã mất tại Bệnh viện Quân y 108 Hà Nội.
 Hầu như không ai biết rằng, vào thời điểm thực hiện chiến dịch CQ-88, Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ còn 1/3 dạ dày sau ca mổ năm 1980 và mang trong người một căn bệnh hiểm nghèo. Hai năm sau, ông đã mất tại Bệnh viện Quân y 108 Hà Nội.

Ngày 07/05/2010, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng có lẽ, danh hiệu quan trọng nhất của Đô đốc Giáp Văn Cương là “vị tướng của Trường Sa” hay “Tư lệnh Trường Sa 1988” – do các chiến sĩ phong tặng bằng sự kính trọng sâu thẳm trong trái tim mình.
 Ngày 07/05/2010, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng có lẽ, danh hiệu quan trọng nhất của Đô đốc Giáp Văn Cương là “vị tướng của Trường Sa” hay “Tư lệnh Trường Sa 1988” – do các chiến sĩ phong tặng bằng sự kính trọng sâu thẳm trong trái tim mình.

Đọc nhiều nhất

Tin mới