Theo Tanks Encyclopedia, trong giai đoạn đầu của Chiến Tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô nhờ sở hữu xe tăng hạng nặng KV với lớp giáp thép dày 120 mm, có khả năng chống chịu hỏa lực mạnh của xe tăng Đức. Tuy nhiên, lợi thế này dẫn mất đi khi quân Đức từ cuối năm 1941 cải tiến pháo phòng không Flak-36 88 mm thành vũ khí chống tăng, dễ dàng tiêu diệt xe tăng KV. Lúc này nhiều người bắt đầu chỉ trích KV vì khả năng cơ động kém, tốc độ thấp, hệ thống truyền động kém tin cậy và khối lượng quá lớnĐiều này buộc các kỹ sư Liên Xô phải phát triển dòng xe tăng hạng nặng thế hệ mới, dung hòa giữa yếu tố hỏa lực, khối lượng và tốc độ, đặt tên là KV-85. Tuy nhiên, ở thời điểm tham chiến tháng 8/1943, xe tăng KV-85 tỏ ra quá yếu trước các xe tăng hạng nặng của Đức như Panther và Tiger.Sau nhiều nỗ lực, vào tháng 1/1944, Liên Xô cho ra mắt xe tăng hạng nặng IS-2 với biệt danh "xe tăng của Stalin", sở hữu lớp giáp trước dày và pháo chính cỡ nòng 122 mm để đối đầu với các xe tăng hạng nặng của Đức. Đây được coi là át chủ bài để Hồng quân Liên Xô xóa sổ lực lượng thiết giáp đối phương ở Mặt trận phía Đông, cũng là mũi nhọn tiên phong trong trận đánh cuối cùng ở Berlin.Điểm nổi bật của xe tăng IS-2 là giáp trước dày 120 mm với góc nghiêng 30 độ, giáp sườn dày 60 mm và nghiêng 72 độ, giúp nó chống chịu hỏa lực đối phương tốt hơn mà không làm tăng khối lượng. Nhờ vậy, IS-2 có thể chịu được đạn pháo xuyên giáp cỡ nòng 88 mm ở khoảng cách 1.000 m. Tuy nhiên, không gian bên trong xe tương đối hẹp, chỉ có thể chứa kíp lái 4 người gồm trưởng xe, lính nạp đạn, pháo thủ và lái xe.IS-2 sử dụng động cơ diesel V2-IC, tương tự loại cho xe tăng KV-1 nhưng được áp dụng một số cải tiến giúp nó đạt tốc độ 37 km/h và tầm hoạt động 250 km.Tăng IS-2 ban đầu sử dụng pháo A19 có tốc độ khai hỏa tương đối chậm, chỉ bằng một nửa xe tăng T-34-85, đạn xuyên giáp đời cũ của nó không thể bắn thủng giáp trước của xe tăng Panther ở khoảng cách dưới 700 m.Liên Xô sau đó thử nghiệm và thay thế pháo A19 trên IS-2 bằng pháo D-25T, có sơ tốc đầu nòng 780-790 m/s, có thể xuyên giáp thép dày 140 mm ở khoảng cách 500 m. Thời gian nạp đạn của D-25T cũng thấp hơn đáng kể so với A19, giúp tăng tốc độ khai hỏa của xe tăng. Xe tăng IS-2 còn được trang bị thêm ba súng máy DT cỡ nòng 7,62 mm để chống bộ binh và một súng máy phòng không DShK cỡ 12,7 mm.Với khả năng diệt xe tăng Panther và Tiger của Đức cũng như phá hủy các công sự kiên cố bằng đạn nổ cực mạnh (HE), IS-2 trở thành vũ khí quý giá trên chiến trường của Liên Xô và chỉ được biên chế cho các tiểu đoàn cận vệ tinh nhuệ.Một lữ đoàn xe tăng cận vệ của Liên Xô thường được biên chế thành ba trung đoàn, mỗi trung đoàn được trang bị 65 chiếc IS-2. Các trung đoàn này được triển khai trong nhiều chiến dịch tấn công quy mô lớn, đóng vai trò là mũi nhọn tiên phong để chọc thủng tuyến phòng ngự kiên cố, yểm trợ bộ binh tấn công, phá hủy hầm ngầm, công trình và các mục tiêu mềm khác của Đức. IS-2 có thể giao chiến trực tiếp với mọi xe tăng thiết giáp của Đức khi có lệnh.Lần thực chiến đầu tiên của xe tăng hạng nặng IS-2 diễn ra vào tháng 2/1944 ở trận Korsun Chevchenkovski tại Ukraine. Sau đó hai tháng, một đơn vị gồm 10 xe IS-2 thuộc Trung đoàn số 72 đã phá hủy khoảng 41 xe tăng Tiger và xe diệt tăng Ferdinand của Đức, trong khi chỉ mất 8 chiếc. Giáp trước của IS-2 chứng tỏ được khả năng chịu đạn pháo 88 mm của Đức ở khoảng cách 1.000 m.Sau một lần giao tranh ở thị trấn Targu Frumos, một xe tăng IS-2 bị hư hại và được đích thân tướng Đức Heinz Wilhelm Guderian, cha đẻ của chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" (Bliztkrieg), tới kiểm tra."Không nên giao tranh với IS-2 nếu không chiếm được ưu thế áp đảo trên chiến trường. Chúng ta cần một trung đội xe tăng Tiger đầy đủ để đối phó với nó. Nỗ lực đối đầu đơn độc với IS-2 sẽ khiến những chiếc Tiger vô giá bị phá hủy", Tướng Guderian sau đó ra chỉ thị.Uy lực của IS-2 buộc quân Đức phải áp dụng chiến thuật mới. Theo đó, quân Đức sẽ huy động số xe tăng áp đảo đối thủ, tấn công thọc sườn và bao vây xe tăng Liên Xô, sau đó tấn công những vị trí dễ tổn thương như đuôi xe và mặt sau tháp pháo từ khoảng cách gần.Nhiều xe tăng IS-2 tham gia chiến dịch Bagration, cuộc tấn công mùa hè năm 1944 vào phía đông nước Đức. Trong chiến dịch này, 11 chiếc IS-2 của Trung đoàn Xe tăng hạng nặng Độc lập số 71 đã đẩy lùi cuộc tấn công của 14 xe tăng Panzer VI đời mới của Đức.Tuy nhiên, xe tăng IS-2 vẫn gặp nhiều hạn chế như thời gian nạp đạn lên tới 20-30 giây, đủ để những chiếc Panzer bắn ra tới 7 phát đạn. Ngoài ra, đạn pháo 122 mm của IS-2 có kích thước lớn, khó sử dụng và thường xuyên ở trong tình trạng thiếu thốn.Xe tăng IS-2 tiếp tục được sử dụng với vai trò tiên phong trong trận chiến Berlin và phá hủy nhiều tòa nhà nhờ đạn HE. Liên Xô thường tổ chức các đơn vị nhỏ gồm 5 chiếc IS-2 được yểm trợ bởi một đại đội bộ binh để chọc thủng phòng tuyến, phá hủy công sự và hầm ngầm Đức.Liên Xô đã sản xuất tổng cộng 3.854 xe tăng IS-2. Sau Thế chiến II, dòng xe này tiếp tục được hiện đại hóa và trong biên chế nhiều nước cho tới năm 1995.Mời độc giả xem video: Lịch sử hình thành xe tăng hạng nặng IS-2.
Theo Tanks Encyclopedia, trong giai đoạn đầu của Chiến Tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô nhờ sở hữu xe tăng hạng nặng KV với lớp giáp thép dày 120 mm, có khả năng chống chịu hỏa lực mạnh của xe tăng Đức. Tuy nhiên, lợi thế này dẫn mất đi khi quân Đức từ cuối năm 1941 cải tiến pháo phòng không Flak-36 88 mm thành vũ khí chống tăng, dễ dàng tiêu diệt xe tăng KV. Lúc này nhiều người bắt đầu chỉ trích KV vì khả năng cơ động kém, tốc độ thấp, hệ thống truyền động kém tin cậy và khối lượng quá lớn
Điều này buộc các kỹ sư Liên Xô phải phát triển dòng xe tăng hạng nặng thế hệ mới, dung hòa giữa yếu tố hỏa lực, khối lượng và tốc độ, đặt tên là KV-85. Tuy nhiên, ở thời điểm tham chiến tháng 8/1943, xe tăng KV-85 tỏ ra quá yếu trước các xe tăng hạng nặng của Đức như Panther và Tiger.
Sau nhiều nỗ lực, vào tháng 1/1944, Liên Xô cho ra mắt xe tăng hạng nặng IS-2 với biệt danh "xe tăng của Stalin", sở hữu lớp giáp trước dày và pháo chính cỡ nòng 122 mm để đối đầu với các xe tăng hạng nặng của Đức. Đây được coi là át chủ bài để Hồng quân Liên Xô xóa sổ lực lượng thiết giáp đối phương ở Mặt trận phía Đông, cũng là mũi nhọn tiên phong trong trận đánh cuối cùng ở Berlin.
Điểm nổi bật của xe tăng IS-2 là giáp trước dày 120 mm với góc nghiêng 30 độ, giáp sườn dày 60 mm và nghiêng 72 độ, giúp nó chống chịu hỏa lực đối phương tốt hơn mà không làm tăng khối lượng. Nhờ vậy, IS-2 có thể chịu được đạn pháo xuyên giáp cỡ nòng 88 mm ở khoảng cách 1.000 m. Tuy nhiên, không gian bên trong xe tương đối hẹp, chỉ có thể chứa kíp lái 4 người gồm trưởng xe, lính nạp đạn, pháo thủ và lái xe.
IS-2 sử dụng động cơ diesel V2-IC, tương tự loại cho xe tăng KV-1 nhưng được áp dụng một số cải tiến giúp nó đạt tốc độ 37 km/h và tầm hoạt động 250 km.
Tăng IS-2 ban đầu sử dụng pháo A19 có tốc độ khai hỏa tương đối chậm, chỉ bằng một nửa xe tăng T-34-85, đạn xuyên giáp đời cũ của nó không thể bắn thủng giáp trước của xe tăng Panther ở khoảng cách dưới 700 m.
Liên Xô sau đó thử nghiệm và thay thế pháo A19 trên IS-2 bằng pháo D-25T, có sơ tốc đầu nòng 780-790 m/s, có thể xuyên giáp thép dày 140 mm ở khoảng cách 500 m. Thời gian nạp đạn của D-25T cũng thấp hơn đáng kể so với A19, giúp tăng tốc độ khai hỏa của xe tăng. Xe tăng IS-2 còn được trang bị thêm ba súng máy DT cỡ nòng 7,62 mm để chống bộ binh và một súng máy phòng không DShK cỡ 12,7 mm.
Với khả năng diệt xe tăng Panther và Tiger của Đức cũng như phá hủy các công sự kiên cố bằng đạn nổ cực mạnh (HE), IS-2 trở thành vũ khí quý giá trên chiến trường của Liên Xô và chỉ được biên chế cho các tiểu đoàn cận vệ tinh nhuệ.
Một lữ đoàn xe tăng cận vệ của Liên Xô thường được biên chế thành ba trung đoàn, mỗi trung đoàn được trang bị 65 chiếc IS-2. Các trung đoàn này được triển khai trong nhiều chiến dịch tấn công quy mô lớn, đóng vai trò là mũi nhọn tiên phong để chọc thủng tuyến phòng ngự kiên cố, yểm trợ bộ binh tấn công, phá hủy hầm ngầm, công trình và các mục tiêu mềm khác của Đức. IS-2 có thể giao chiến trực tiếp với mọi xe tăng thiết giáp của Đức khi có lệnh.
Lần thực chiến đầu tiên của xe tăng hạng nặng IS-2 diễn ra vào tháng 2/1944 ở trận Korsun Chevchenkovski tại Ukraine. Sau đó hai tháng, một đơn vị gồm 10 xe IS-2 thuộc Trung đoàn số 72 đã phá hủy khoảng 41 xe tăng Tiger và xe diệt tăng Ferdinand của Đức, trong khi chỉ mất 8 chiếc. Giáp trước của IS-2 chứng tỏ được khả năng chịu đạn pháo 88 mm của Đức ở khoảng cách 1.000 m.
Sau một lần giao tranh ở thị trấn Targu Frumos, một xe tăng IS-2 bị hư hại và được đích thân tướng Đức Heinz Wilhelm Guderian, cha đẻ của chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" (Bliztkrieg), tới kiểm tra.
"Không nên giao tranh với IS-2 nếu không chiếm được ưu thế áp đảo trên chiến trường. Chúng ta cần một trung đội xe tăng Tiger đầy đủ để đối phó với nó. Nỗ lực đối đầu đơn độc với IS-2 sẽ khiến những chiếc Tiger vô giá bị phá hủy", Tướng Guderian sau đó ra chỉ thị.
Uy lực của IS-2 buộc quân Đức phải áp dụng chiến thuật mới. Theo đó, quân Đức sẽ huy động số xe tăng áp đảo đối thủ, tấn công thọc sườn và bao vây xe tăng Liên Xô, sau đó tấn công những vị trí dễ tổn thương như đuôi xe và mặt sau tháp pháo từ khoảng cách gần.
Nhiều xe tăng IS-2 tham gia chiến dịch Bagration, cuộc tấn công mùa hè năm 1944 vào phía đông nước Đức. Trong chiến dịch này, 11 chiếc IS-2 của Trung đoàn Xe tăng hạng nặng Độc lập số 71 đã đẩy lùi cuộc tấn công của 14 xe tăng Panzer VI đời mới của Đức.
Tuy nhiên, xe tăng IS-2 vẫn gặp nhiều hạn chế như thời gian nạp đạn lên tới 20-30 giây, đủ để những chiếc Panzer bắn ra tới 7 phát đạn. Ngoài ra, đạn pháo 122 mm của IS-2 có kích thước lớn, khó sử dụng và thường xuyên ở trong tình trạng thiếu thốn.
Xe tăng IS-2 tiếp tục được sử dụng với vai trò tiên phong trong trận chiến Berlin và phá hủy nhiều tòa nhà nhờ đạn HE. Liên Xô thường tổ chức các đơn vị nhỏ gồm 5 chiếc IS-2 được yểm trợ bởi một đại đội bộ binh để chọc thủng phòng tuyến, phá hủy công sự và hầm ngầm Đức.
Liên Xô đã sản xuất tổng cộng 3.854 xe tăng IS-2. Sau Thế chiến II, dòng xe này tiếp tục được hiện đại hóa và trong biên chế nhiều nước cho tới năm 1995.
Mời độc giả xem video: Lịch sử hình thành xe tăng hạng nặng IS-2.