Manfred von Richthofen sinh ngày 5/2/1892, là anh cả trong gia đình quý tộc người Phổ có ba người con. Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoàng gia Đức, Richthofen trở thành sĩ quan kỵ binh, được biên chế vào trung đoàn Uhlans Kaiser Alexander III vào tháng 4/1911 với quân hàm thiếu úy.
Khi Thế chiến I nổ ra, Richthofen tham gia cùng đội kỵ binh nhưng sớm nhận ra sự lạc hậu của binh chủng này nên đã nộp đơn xin gia nhập không quân. Với khả năng của mình, anh hoàn tất khóa học chỉ trong 4 tuần trong khi người bình thường phải mất đến 3 tháng.
Sau khi hoàn thành khóa học, phi công Manfred von Richthofen được bổ nhiệm về đơn vị oanh tạc cơ Kampfgeschwader 11. Tại đây ông được nhiều phi công lão luyện hỗ trợ thêm kinh nghiệm để có thể lái thành thạo máy bay chiến đấu Albatros gắn một súng máy bên cánh.
|
Hình ảnh Nam tước đỏ Manfred von Richthofen |
Tháng 9/1915, Richthofen với chiếc Albatros của mình đã bắn rơi một máy bay Pháp, nhưng thành tích này không được công nhận do chiếc máy bay Pháp rơi ở phía sau phòng tuyến đối phương. 6 tháng sau, ông tiếp tục bắn hạ một chiếc Nieuport của Pháp, nhưng cũng không được ghi nhận thành tích vì lý do tương tự.
Nhận ra được khả năng của ông, phi công lão luyện Boelcke vốn là phi công hàng đầu của Đức khi đó vừa thành lập phi đội Jasta 2 tại mặt trận Somme đã mời ông tham gia phi đội mới này. Ngày 17/9/1916, ông cùng phi đội xuất kích, dù quân số bị áp đảo nhưng ông vẫn bắn hạ được một máy bay FE-2B của không quân Anh
Ngày 9/10, Manfred von Richtofen nâng thành tích tiêu diệt máy bay đối phương lên con số 9.
Ngày 23/11/1916, không quân Anh do thiếu tá Lanoe George Hawker, người đã liên tiếp bắn hạ nhiều máy bay Đức và là chỉ huy Phi đội 24 của Anh dẫn đầu đã tấn công máy bay Đức. Richthofen dẫn các máy bay Đức phản kích và bắn bị thương hai máy bay Anh. Riêng thiếu tá Hawker đối mặt với Richthofen và bị bắn hạ. Hawker là nạn nhân thứ 11 của Richthofen.
|
Lính Úc xem xét xác máy bay của Manfred von Richthofen |
“Hawker rút về bởi anh ta biết tôi đang đuổi theo. Anh ta bắt đầu bay lắt léo khiến tôi khó ngắm bắn. Khi còn cách máy bay của anh ta 45 m, tôi bắt đầu bắn xối xả. Chúng tôi bám đuổi ở độ cao chỉ 45 m so với mặt đất. Khi còn cách 27 m, khẩu súng máy của tôi liên tục bị kẹt đạn, nhưng cuối cùng anh ta cũng bị trúng đạn sau gáy. Chiếc máy bay sau đó lộn nhào và rơi xuống đất. Anh ta là một người đàn ông dũng cảm và là một phi công chiến đấu đáng gờm”, Richthofen kể lại.
Sau chiến thắng lần thứ 16, Richthofen thành lập phi đội Jagdstaffel 11 của riêng mình, lấy biệt danh là “Gánh xiếc bay”. Ông đã chứng tỏ được tài năng bằng phương thức chiến đấu của riêng mình, dựa trên tính toán chính xác về vị trí, góc độ và cách khai hỏa để tiêu diệt đối phương.
Richthofen chỉ huy phi đội của mình bằng kỷ luật nghiêm ngặt, yêu cầu các phi công thuộc quyền nghiên cứu và học theo chiến thuật của mình. Đến cuối năm 1916, ông sơn máy bay mình sang màu đỏ, biệt danh “Nam tước đỏ” (Red Baron) bắt đầu từ đây.
|
Lính Úc xem xét xác máy bay của Manfred von Richthofen |
Đến tháng 3/1917, Nam tước đỏ Manfred von Richthofen đã bắn rơi 31 máy bay phe Hiệp ước, khiến các phi công Anh khiếp sợ và tìm cách tiêu diệt ông. Richthofen và các phi công trong phi đội may mắn sống sót khi máy bay Anh tập kích nhà chứa máy bay của họ ở Douai vào ngày 5/4.
Trong cuộc chạm trán với Phi đội 20 của Anh 4 tháng sau đó, Nam tước đỏ Manfred von Richthofen bị trúng đạn ở đầu và vỡ một phần hộp sọ. Dù được chữa trị theo cách tốt nhất, vết thương không bao giờ lành, khiến Richthofen luôn phải chịu những cơn đau đầu dữ dội, khiến kỹ năng bay của ông cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, đến tháng 9, “Nam tước đỏ” vẫn bắn hạ được chiếc máy bay thứ 60 của đối phương.
|
Đám tang của Manfred von Richthofen do người Anh tổ chức |
Sự nghiệp lừng lẫy của Nam tước đỏ Manfred von Richthofen chấm dứt vào ngày 21/4/1918, trong một trận đụng độ với phi đội 15 tiêm kích Sopwith Camel của không quân Canada do đại úy phi công Roy Brown dẫn đầu.
Trong lúc hơn 30 máy bay của cả hai phe quần đảo dữ dội trên không, chiếc tiêm kích màu đỏ tươi của Richthofen đã thu hút sự chú ý của đại úy Brown. Trong khi “Nam tước đỏ” mải mê đuổi theo một máy bay khác, đại úy Brown lặng lẽ bám theo sau và bắn hạ chiếc máy bay.
Chiếc máy bay màu đỏ trúng đạn và rơi gần Saily-le-Sac, tại khu vực do bộ binh Australia kiểm soát. Lính Autralia nhanh chóng tìm thấy chiếc máy bay và sửng sốt khi phát hiện thi thể Richthofen bên trong.
Đám tang của ông được tổ chức hết sức chu đáo và long trọng. Cha Tuyên úy Không quân Hoàng gia dẫn đầu đoàn đưa quan tài của phi công đối địch, Rittmeister Manfred von Richthofen (Nam tước Đỏ) đi qua hàng quân dành dự chào tiễn đưa Bá Tước Đỏ đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Bertangle, Pháp.
|
Đám tang của Manfred von Richthofen do người Anh tổ chức |
Quan tài do 6 phi công của Phi đội số 3, Không đoàn Úc khiêng. Binh lính hai bên cũng là binh sĩ Úc, cùng tiễn đưa kẻ thù sừng sỏ của mình.
Thi hài của ông được chôn cất tại nghĩa trang tại làng Bertangle, gần Amiens, vào ngày 22/4/1918. Các phi đội phe Hiệp Ước đóng quân gần đó đã lần lượt trao vòng hoa tưởng niệm kẻ thù đã khuất của mình, một trong số đó có ghi dòng chữ “Gửi tặng kẻ thù Dũng cảm và Xứng đáng của chúng tôi”
Nam tước đỏ Manfred von Richthofen được coi là “Ace của Ace” của cuộc chiến, được chính thức ghi nhận bắn hạ 80 phi cơ của phe Hiệp ước đối địch gồm 16 chiếc B.E.2, 13 máy bay F.E.2, 8 chiếc Sopwith Camel, 7 chiếc R.E.8, 5 chiếc Brisfit, 5 chiếc Spad VII, 5 chiếc Nieuport và một số loại khác.
Đến nay huyền thoại Nam Tước Đỏ Manfred von Richthofen vẫn là niềm cảm hứng cho nhiều bộ phim và tác phẩm văn học, điện ảnh khác.