Gen MAPT có ảnh hưởng đến quá trình mắc COVID-19, mức độ nghiêm trọng của bệnh và những di chứng để lại đối với những bệnh nhân đã khỏi bệnh phụ thuộc vào gen này.
Các nghiên cứu cho thấy, ảnh hưởng của gen MAPT kéo dài đến giai đoạn cấp tính của bệnh COVID-19, gây ra những biến chứng nghiêm trọng, bao gồm cả các biến chứng về thần kinh. Đây là kết quả nghiên cứu của một nhóm các nhà khoa học quốc tế gồm: Giáo sư Anchi Baranova thuộc Đại học George Mason, Mỹ, Giám đốc Tập đoàn y sinh học “Atlas” của Nga; Tiến sĩ Honbao Kao thuộc Đại học George Mason và Tiến sĩ Fukwan Jiang thuộc Đại học Nam Kinh, Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí khoa học Frontiers in Medicine Translational Medicine.
|
Ảnh minh họa. |
Đa số các nghiên trước đây đều chỉ ra, hầu hết những người bị
nhiễm virus SARS-CoV-2 không có triệu chứng, nhưng 10 - 20% trong số đó chuyển biến nặng và buộc phải nhập viện.
Trong một năm rưỡi của đại dịch, các bác sĩ đã chắc chắn rằng, các bệnh nhân mắc COVID-19 tiến triển nặng là những người có các bệnh nền như tăng huyết áp, béo phì, tiểu đường. Tuy nhiên, những diễn tiến gần đây lại cho thấy, có nhiều bệnh nhân trẻ tuổi, khoẻ mạnh, không mắc bệnh nền cũng bị biến chứng nặng và chết vì nhiễm coronavirus.
Các nhà khoa học cho rằng, di truyền có liên quan đến quá trình nhiễm COVID-19. Họ đã tiến hành phân tích bộ gen, đồng thời kết hợp với các nghiên cứu sinh học khác, kết quả là, ba gen gồm MAPT, CCR5 và PIGN được phát hiện có liên quan đến nguy cơ mắc virus Corona ở dạng vừa hoặc nặng và với nguy cơ nhập viện.
Đáng lưu ý, gen MAPT cũng có liên quan đến sự phát triển của chứng mất trí. Các nhà khoa học cho rằng, những thay đổi trong gen này ảnh hưởng đến tác động của COVID-19 đối với sức khỏe con người. Gen MAPT mã hóa cho protein TAU quan trọng nhất trong hệ thần kinh.
Trong não của nhiều người cao tuổi, protein TAU gây ra các rối loạn trong hệ thần kinh. Ngoài ra, virus Corona có thể dễ dàng xâm nhập vào các tế bào có sự hình thành protein TAU bị suy giảm, góp phần gây tổn thương cho não và dây thần kinh. Do đó, theo các tác giả của công trình nghiên cứu này, gen MAPT rất quan trọng để xác định nguy cơ dẫn đến mắc COVID-19 nghiêm trọng và kéo dài, bao gồm cả những trường hợp có biến chứng về thần kinh.
Gen tổng hợp thụ thể CCR5 có liên quan đến việc gây kháng nhiễm HIV, nếu ngăn chặn thụ thể này thì có thể kiểm soát virus suy giảm miễn dịch ở người và giảm sự lây lan của nó trong cơ thể. Trong trường hợp COVID-19, gen này có nhiều khả năng ảnh hưởng đến các quá trình viêm, gây ra nguy cơ mắc huyết khối ở bệnh nhân COVID-19. Các nhà khoa học gợi ý rằng, nếu thụ thể cytokine CCR5 bị ngăn chặn thì các loại thuốc DICH, hiện đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, có thể được sử dụng để điều trị COVID-19.
Đối với gen PIGN, đột biến của nó dẫn đến khiếm khuyết trong quá trình sinh tổng hợp một loại protein đặc biệt GPI, gây ra các bệnh về cơ, suy giảm chức năng não và hạ huyết áp. Một phân tích trước đó trong phòng thí nghiệm về các tế bào bị nhiễm virus SARS-CoV-2 và ba chủng virus khác cho thấy, nếu không có sự sinh tổng hợp GPI, tất cả các virus này sẽ không tồn tại trong cơ thể. Theo các nhà khoa học, nếu chức năng của gen PIGN tạm thời bị “vô hiệu hoá”, nó có thể giúp tiêu diệt virus Corona sau khi xâm nhập vào cơ thể. Do đó, có khả năng tìm ra một phương pháp chữa trị thực sự hiệu quả để điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19.
Nhận xét về kết quả nghiên cứu, giáo sư Anchi Baranova cho rằng: “Trong thực hành lâm sàng, di truyền đóng một vai trò ngày càng quan trọng. Phân tích DNA giúp chúng tôi có thể xem xét các biến thể gen được thừa hưởng. Chúng tôi hy vọng, nghiên cứu của chúng tôi sẽ tiến gần hơn thời điểm chiến thắng hoàn toàn virus Corona".