|
Rễ cây rẻ quạt. |
Trong các cây làm thuốc, tùy theo tính dược và kinh nghiệm mà người ta dùng cành, lá, hoa, quả và rễ. Trong phạm vi bài viết này, xin giới thiệu một số loại rễ cây thông thường làm thuốc chữa bệnh có hiệu quả.
Rễ cây râm bụt: Râm bụt mọc ở mọi nơi, thường được trồng làm hàng rào. Cả cây râm bụt đều có tác dụng làm thuốc. Hoa và lá giã nhỏ, cho thêm ít muối đắp lên mụn nhọt sẽ tan, còn rễ sắc với một vài vị thuốc chữa kinh nguyệt không đều, khí hư bạch đới, làm lợi tiểu và giải độc. Bài thuốc: Rễ râm bụt 25g, rau má 20g, ích mẫu 20g, hương phụ 8g. Sắc uống ngày một thang.
Rễ cây gai: Cây gai dễ sống, dễ trồng. Rễ gai dùng làm thuốc, thu hái quanh năm. Theo tài liệu cổ, rễ gai có vị ngọt, tính hàn, không độc, có tác dụng tả nhiệt, tán ứ, dùng cho phụ nữ bị động thai, người bị sa trực tràng... Bài thuốc: Rễ gai 8g, cành tía tô 6g, ngải cứu 4g. Sắc uống ngày một thang. Có thể dùng độc vị rễ gai sắc ngày uống 3 lần, mỗi lần một bát.
Rễ cây dứa: Dứa được trồng để ăn quả. Rễ cây dứa chữa bệnh tiểu buốt, tiểu rắt, sỏi thận và tiết niệu. Bài thuốc: Rễ dứa (rễ non tốt hơn) rửa sạch phơi hoặc sấy khô dùng dần. Cũng có thể dùng rễ tươi 6 - 10g/ngày sắc uống.
Rễ cây lựu: Rễ lựu sau khi lấy về rửa sạch, phơi hay sấy khô nên dùng ngay, không nên dùng quá một năm vì để lâu như vậy có thể gây độc. Dùng rễ lựu điều trị giun sán rất đặc hiệu. Không dùng rễ lựu cho trẻ em và phụ nữ có thai. Bài thuốc: Rễ lựu 40g, đại hoàng 4g, hạt cau 4g. Cho 500ml nước sắc còn 300ml. Tối hôm trước nhịn ăn, sáng hôm sau uống làm 3 lần, mỗi lần cách nhau 1 giờ. Nằm nghỉ ngơi. Khi đi ngoài thấy thân sán ra là có kết quả. Nên ngâm mông vào chậu nước ấm để đầu sán ra hết; nếu để lạnh đầu sán hay đứt.
Rễ cỏ gianh: Cỏ gianh còn được gọi là cỏ tranh. Cỏ tranh mọc hoang ở mọi nơi, nhất là vùng đồi núi. Theo tài liệu cổ, rễ cỏ tranh có vị ngọt, tính mát, có thể dùng tươi hoặc khô. Tác dụng lợi tiểu, trị vàng da và các chứng ra máu. Phụ nữ có thai không được dùng. Bài thuốc: Rễ cỏ tranh 30g, râu ngô 40g, sa tiền tử 25g, hoa cúc 5g. Tất cả nấu với 1 lít nước, để nguội, uống trong ngày.
Rễ cỏ xước: Cỏ xước còn có tên là ngưu tất, mọc hoang nhiều nơi, có thể dùng tươi hoặc khô, thu hái quanh năm. Theo y học cổ truyền, cỏ xước có vị chua, đắng, tính bình, không độc, vào 2 kinh chính là can, thận, có tác dụng phá huyết hành ứ (dùng sống), bổ can thận, mạnh gân cốt (dùng chín), chữa bệnh viêm khớp, đau bụng, kinh nguyệt khó ra. Ngày dùng 8 - 10g, sắc uống cả ngày. Bài thuốc: Rễ cỏ xước sao vàng 10g, lá bạc hà 5g, cỏ mần trầu 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Rễ cây rẻ quạt: Rẻ quạt còn có tên là xạ can. Rễ cây có tác dụng chữa bệnh. Theo tài liệu cổ, rẻ quạt có vị đắng cay, tính hàn, hơi độc, đi vào hai kinh can và phế, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tán huyết, tiêu đờm, chữa viêm họng, viêm phế quản, thanh quản. Rẻ quạt còn chữa đại tiểu tiện không thông, tắc tia sữa và rắn cắn. Bài thuốc: Rễ rẻ quạt 4g, hoàng cầm 2g, cam thảo 2g, cát cánh 2g. Sắc uống ngày một thang.
Rễ cây bướm bạc: Bướm bạc còn gọi là cây hoa bướm. Cây mọc hoang khắp nơi, nhất là vùng rừng núi. Theo tài liệu cổ, cây bướm bạc có vị ngọt, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, trị sốt nóng, lợi tiểu, chữa viêm tấy, giảm đau xương khớp, chữa tê thấp. Bài thuốc: Rễ cây bướm bạc 30g, lá rẻ quạt 2g, húng chanh 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.