Tháng 7/1960, 35 chiếc T-34-85 được đưa vào Việt Nam trong đội hình trung đoàn xe tăng đầu tiên của quân đội ta mang phiên hiệu 202. T-34-85 là biến thể cải tiến ra đời đầu năm 1944 của xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo. Xe có trọng lượng chiến đấu 30,9 tấn, vỏ thép dày từ 20-90mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính S-53 cỡ nòng 85mm với cơ số đạn 60 viên và 2 súng máy cỡ 7,62mm. Để phù hợp với điều kiện chiến đấu, ta đã tự cải tiến nhiều xe T-34-85 gắn thêm đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm (trong ảnh) hoặc cải biên thành xe phòng không (gắn pháo cao xạ 57mm). T-34-8 trong quân đội ta không trực tiếp tham chiến nhiều. Sau lần ra quân đầu tiên ở chiến dịch đường 9 Nam Lào tháng 3/1971 trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 397, loại xe này chỉ xuất hiện thêm trong một số trận đánh tại mặt trận Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (1971-1972), Trị-Thiên-Huế (4/1975) và Lạng Sơn (2/1979). T-54 được Liên Xô thiết kế từ giai đoạn cuối Thế chiến 2 và bắt đầu đi vào sản xuất hàng loạt từ năm 1947, trở thành xương sống cho lực lượng tăng thiết giáp của Liên Xô và nhiều nước trong một thời gian dài. T-54 có trọng lượng chiến đấu 36 tấn, vỏ thép dày từ 20-200mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính D-10T cỡ 100mm với cơ số đạn 34 viên, 1 đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm và 2 súng máy SGMT cỡ 7,62mm.Xe tăng T-54 bắt đầu vào Việt Nam từ tháng 2/1962 với các biến thể T-54-2, T-54A (pháo có ổn định tầm), T-54B (pháo có ổn định tầm, hướng) do Liên Xô sản xuất và Type 59 do Trung Quốc sao chép từ T-54A và mang chung định danh K1.Xuất trận lần đầu trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 297 ở chiến dịch đường 9-Nam Lào tháng 3/1971, T-54 nhanh chóng trở thành quả đấm thép chủ lực của Việt Nam trong các trận đánh ở giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ (1972-1975) và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Trong ảnh là chiếc T-54 quân đội ta lăn bánh xích qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thăng.Ngày 30/4/1975, chiếc Type 59 số hiệu 390 và T-54 số hiệu 843 của Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 là những xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước. Trong ảnh chiếc Type 59 số hiệu 390 trên sân dinh trong ngày chiến thắng.PT-76 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1953, đóng vai trò là lực lượng trinh sát trong các đơn vị tăng thiết giáp, bộ binh cơ giới và hải quân đánh bộ Liên Xô cùng nhiều nước khác. Xe có trọng lượng chiến đấu 14,6 tấn, vỏ thép 5-20mm, kíp xe 3 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính D-56T cỡ 76,2mm với cơ số đạn 40 viên và 1 súng máy đồng trục SGMT cỡ 7,62mm. Từ tháng 4/1961, Việt Nam bắt đầu được Liên Xô viện trợ xe tăng PT-76 và PT-76B và đưa vào trang bị với định danh K3A, trong đó một số xe được cải tiến gắn thêm đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm (trong ảnh). Trong biên chế Việt Nam, loại xe này đã đóng vai trò chiến đấu khá tích cực trong kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới Tây Nam. PT-76 đã đánh dấu lần xuất quân đầu tiên của bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam với các chiến thắng Tà Mây (23/1/1968) và Làng Vây (7/2/1968) của Tiểu đoàn xe tăng 198. Đặc biệt, cũng chính xe tăng lội nước PT-76 đã tham gia trận đối tăng duy nhất với quân Mỹ trong chiến tranh ở căn cứ Plây Cần ngày 3/3/1969, bắn hỏng 1 xe tăng M48 của địch. Trong ảnh là đội hình xe tăng PT-76 huấn luyện bơi.SU-76 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1942 trên cơ sở khung gầm xe tăng hạng nhẹ T-70, được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến 2 với vai trò chống tăng, yểm trợ bộ binh và làm pháo binh cơ động. SU-76 có trọng lượng chiến đấu 10,6 tấn, vỏ thép dày từ 15-35mm, kíp chiến đấu 4 người và được trang bị pháo chính ZIS-3Sh cỡ 76,2mm với cơ số đạn 60 viên. Cùng với T-34-85, tháng 7/1960, 16 chiếc SU-76 do Liên Xô viện trợ được chuyển về Việt Nam trong đội hình trung đoàn xe tăng đầu tiên (Trung đoàn 202). Tuy vậy, trừ một số hoạt động chiến đấu khá hạn chế khi làm nhiệm vụ phòng thủ bờ biển ở Quân khu 3 trong kháng chiến chống Mỹ hoặc ở mặt trận Hà Giang năm 1984, SU-76 (còn được biết đến ở Việt Nam dưới tên gọi CAY-76) chủ yếu chỉ được sử dụng với vai trò huấn luyện. Một số chiếc đã được hoán cải thành "pháo phòng không tự hành" trang bị pháo 37mm hoặc 23mm. Ảnh minh họaZSU-57-2 được Liên Xô thiết kế từ năm 1948 trên cơ sở khung gầm xe tăng chủ lực T-54 và bắt đầu được đưa vào sản xuất từ 1957, trang bị cho các đơn vị phòng không của tăng thiết giáp Liên Xô. Trong kháng chiến chống Mỹ, ZSU-57-2 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam và đã tham gia chiến đấu với máy bay Mỹ, bảo vệ các căn cứ không quân ở miền Bắc cũng như đóng vai trò yểm trợ các mũi đột kích của xe tăng trong cuộc tiến công chiến lược 1972.ZSU-57-2 có trọng lượng chiến đấu 28,1 tấn, vỏ thép 8-15mm, trang bị 1 pháo 2 nòng cỡ 57mm với cơ số đạn 300 viên và kíp chiến đấu 6 người. BTR-40 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1950 dựa trên khung gầm cơ sở của xe vận tải GAZ-63. Xe có trọng lượng chiến đấu 5,3 tấn, bọc thép 6-8mm, kíp chiến đấu 2 người, được trang bị súng máy và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. Trong ảnh là pháo phòng không tự hành AM thiết kế dựa trên loại BTR-40 trang bị trong quân đội ta.Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, BTR-40 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam, trang bị thêm trọng liên phòng không KPV 14,5mm 2 nòng và đã tham gia nhiều trận chiến đấu phòng không bảo vệ miền Bắc và chi viện bộ binh chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ và Lào.Trong các loại bọc thép chở quân của Liên Xô, BTR-50 là trường hợp hiếm hoi chạy bằng bánh xích được thiết kế và sản xuất từ năm 1954 dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng PT-76. BTR-50 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 7-13mm, kíp chiến đấu 2 người, trang bị 1 súng SGMB cỡ 7,62mm và có thể chở theo 2 tiểu đội bộ binh. Năm 1971 Việt Nam được Liên Xô viện trợ BTR-50 phiên bản PK (nóc xe được bọc thép dày 10mm) và trên cơ sở đó xây dựng Trung đoàn 202 thành trung đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên. BTR-50PK đóng vai trò tích cực trong cuộc tiến công chiến lược 1972 cả trong vai trò chi viện bộ binh lẫn phòng không với một số xe được cải tiến gắn pháo cao xạ 2 nòng 23mm ZU-23-2 hoặc mang tên lửa chống tăng có điều khiển 9K11 Malyutka. Trong ảnh là một số xe bọc thép BTR-50PK cải tiến với pháo 23mm ZU-23-2.Sau ngày chiến thắng 1975, BTR-50PK tiếp tục tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam, được Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 sử dụng trong trận đổ bộ đánh chiếm cảng Kampong Som của hải quân Khmer Đỏ tháng 1/1979.Trong ảnh là BTR-50PK đổ bộ từ tàu LST trong chiến dịch Tây Nam 1979.BTR-60 được Liên Xô thiết kế và chế tạo từ 1960 nhằm thay thế cho BTR-152 và sau đó trở thành một trong những loại thiết giáp chở quân chủ lực của các lực lượng vũ trang Liên Xô cũng như trọng xã hội chủ nghĩa. BTR-60 có trọng lượng chiến đấu 10,3 tấn, vỏ thép dày từ 7-10mm, trang bị 1 đại liên KPVT cỡ 14,5mm và 1 súng máy đồng trục PKT cỡ 7,62mm. Xe có kíp chiến đấu 3 người và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. BTR-60PB được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ và đóng vai trò tích cực trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975. Đặc biệt, nhờ khả năng lội nước nên BTR-60PB đã phát huy hiệu quả chiến đấu cao trên địa hình sông rạch trong đội hình cánh quân tiến công giải phóng Sài Gòn từ hướng Tây - Tây Nam. Trong ảnh là đội hình xe BTR-60PB tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975. BRDM-2 được Liên Xô nghiên cứu thiết kế và chế tạo từ 1962 nhằm thay thế cho BRDM-1 trong vai trò xe lội nước làm nhiệm vụ tuần tiễu và trinh sát. BRDM-2 có trọng lượng chiến đấu 7,7 tấn, bọc thép 2-14mm, kíp chiến đấu 4 người, được trang bị 1 đại liên KPVT cỡ 14,5mm và 1 súng máy đồng trục PKT cỡ 7,62mm. Việt Nam bắt đầu tiếp nhận một số BRDM-2 do Liên Xô viện trợ từ năm 1970 và sau đó trang bị cho các đơn vị cảnh vệ hoặc trinh sát của bộ binh cơ giới, pháo binh, phòng hóa.Xe tăng hạng nhẹ Type 62 do Trung Quốc sản xuất, xe có trọng lượng chiến đấu 21 tấn, vỏ thép dày từ 15-50mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ nòng 85mm với cơ số đạn 47 viên. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam một số ít Type 62. Tuy nhiên loại xe này chưa bao giờ được đưa vào biên chế chính thức quân đội ta. Trong thực tế, những chiếc Type 62 từng được bộ đội Việt Nam sử dụng đều là chiến lợi phẩm tại chỗ thu được từ quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979) hoặc từ quân Trung Quốc trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2/1979. Ảnh minh họa
Tháng 7/1960, 35 chiếc T-34-85 được đưa vào Việt Nam trong đội hình trung đoàn xe tăng đầu tiên của quân đội ta mang phiên hiệu 202.
T-34-85 là biến thể cải tiến ra đời đầu năm 1944 của xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo. Xe có trọng lượng chiến đấu 30,9 tấn, vỏ thép dày từ 20-90mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính S-53 cỡ nòng 85mm với cơ số đạn 60 viên và 2 súng máy cỡ 7,62mm.
Để phù hợp với điều kiện chiến đấu, ta đã tự cải tiến nhiều xe T-34-85 gắn thêm đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm (trong ảnh) hoặc cải biên thành xe phòng không (gắn pháo cao xạ 57mm).
T-34-8 trong quân đội ta không trực tiếp tham chiến nhiều. Sau lần ra quân đầu tiên ở chiến dịch đường 9 Nam Lào tháng 3/1971 trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 397, loại xe này chỉ xuất hiện thêm trong một số trận đánh tại mặt trận Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (1971-1972), Trị-Thiên-Huế (4/1975) và Lạng Sơn (2/1979).
T-54 được Liên Xô thiết kế từ giai đoạn cuối Thế chiến 2 và bắt đầu đi vào sản xuất hàng loạt từ năm 1947, trở thành xương sống cho lực lượng tăng thiết giáp của Liên Xô và nhiều nước trong một thời gian dài. T-54 có trọng lượng chiến đấu 36 tấn, vỏ thép dày từ 20-200mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính D-10T cỡ 100mm với cơ số đạn 34 viên, 1 đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm và 2 súng máy SGMT cỡ 7,62mm.
Xe tăng T-54 bắt đầu vào Việt Nam từ tháng 2/1962 với các biến thể T-54-2, T-54A (pháo có ổn định tầm), T-54B (pháo có ổn định tầm, hướng) do Liên Xô sản xuất và Type 59 do Trung Quốc sao chép từ T-54A và mang chung định danh K1.
Xuất trận lần đầu trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 297 ở chiến dịch đường 9-Nam Lào tháng 3/1971, T-54 nhanh chóng trở thành quả đấm thép chủ lực của Việt Nam trong các trận đánh ở giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ (1972-1975) và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Trong ảnh là chiếc T-54 quân đội ta lăn bánh xích qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thăng.
Ngày 30/4/1975, chiếc Type 59 số hiệu 390 và T-54 số hiệu 843 của Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 là những xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước. Trong ảnh chiếc Type 59 số hiệu 390 trên sân dinh trong ngày chiến thắng.
PT-76 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1953, đóng vai trò là lực lượng trinh sát trong các đơn vị tăng thiết giáp, bộ binh cơ giới và hải quân đánh bộ Liên Xô cùng nhiều nước khác. Xe có trọng lượng chiến đấu 14,6 tấn, vỏ thép 5-20mm, kíp xe 3 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính D-56T cỡ 76,2mm với cơ số đạn 40 viên và 1 súng máy đồng trục SGMT cỡ 7,62mm.
Từ tháng 4/1961, Việt Nam bắt đầu được Liên Xô viện trợ xe tăng PT-76 và PT-76B và đưa vào trang bị với định danh K3A, trong đó một số xe được cải tiến gắn thêm đại liên phòng không DShK cỡ 12,7mm (trong ảnh).
Trong biên chế Việt Nam, loại xe này đã đóng vai trò chiến đấu khá tích cực trong kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới Tây Nam. PT-76 đã đánh dấu lần xuất quân đầu tiên của bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam với các chiến thắng Tà Mây (23/1/1968) và Làng Vây (7/2/1968) của Tiểu đoàn xe tăng 198. Đặc biệt, cũng chính xe tăng lội nước PT-76 đã tham gia trận đối tăng duy nhất với quân Mỹ trong chiến tranh ở căn cứ Plây Cần ngày 3/3/1969, bắn hỏng 1 xe tăng M48 của địch. Trong ảnh là đội hình xe tăng PT-76 huấn luyện bơi.
SU-76 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1942 trên cơ sở khung gầm xe tăng hạng nhẹ T-70, được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến 2 với vai trò chống tăng, yểm trợ bộ binh và làm pháo binh cơ động. SU-76 có trọng lượng chiến đấu 10,6 tấn, vỏ thép dày từ 15-35mm, kíp chiến đấu 4 người và được trang bị pháo chính ZIS-3Sh cỡ 76,2mm với cơ số đạn 60 viên.
Cùng với T-34-85, tháng 7/1960, 16 chiếc SU-76 do Liên Xô viện trợ được chuyển về Việt Nam trong đội hình trung đoàn xe tăng đầu tiên (Trung đoàn 202). Tuy vậy, trừ một số hoạt động chiến đấu khá hạn chế khi làm nhiệm vụ phòng thủ bờ biển ở Quân khu 3 trong kháng chiến chống Mỹ hoặc ở mặt trận Hà Giang năm 1984, SU-76 (còn được biết đến ở Việt Nam dưới tên gọi CAY-76) chủ yếu chỉ được sử dụng với vai trò huấn luyện. Một số chiếc đã được hoán cải thành "pháo phòng không tự hành" trang bị pháo 37mm hoặc 23mm. Ảnh minh họa
ZSU-57-2 được Liên Xô thiết kế từ năm 1948 trên cơ sở khung gầm xe tăng chủ lực T-54 và bắt đầu được đưa vào sản xuất từ 1957, trang bị cho các đơn vị phòng không của tăng thiết giáp Liên Xô. Trong kháng chiến chống Mỹ, ZSU-57-2 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam và đã tham gia chiến đấu với máy bay Mỹ, bảo vệ các căn cứ không quân ở miền Bắc cũng như đóng vai trò yểm trợ các mũi đột kích của xe tăng trong cuộc tiến công chiến lược 1972.
ZSU-57-2 có trọng lượng chiến đấu 28,1 tấn, vỏ thép 8-15mm, trang bị 1 pháo 2 nòng cỡ 57mm với cơ số đạn 300 viên và kíp chiến đấu 6 người.
BTR-40 được Liên Xô thiết kế và sản xuất từ năm 1950 dựa trên khung gầm cơ sở của xe vận tải GAZ-63. Xe có trọng lượng chiến đấu 5,3 tấn, bọc thép 6-8mm, kíp chiến đấu 2 người, được trang bị súng máy và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. Trong ảnh là pháo phòng không tự hành AM thiết kế dựa trên loại BTR-40 trang bị trong quân đội ta.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, BTR-40 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam, trang bị thêm trọng liên phòng không KPV 14,5mm 2 nòng và đã tham gia nhiều trận chiến đấu phòng không bảo vệ miền Bắc và chi viện bộ binh chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ và Lào.
Trong các loại bọc thép chở quân của Liên Xô, BTR-50 là trường hợp hiếm hoi chạy bằng bánh xích được thiết kế và sản xuất từ năm 1954 dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng PT-76. BTR-50 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 7-13mm, kíp chiến đấu 2 người, trang bị 1 súng SGMB cỡ 7,62mm và có thể chở theo 2 tiểu đội bộ binh.
Năm 1971 Việt Nam được Liên Xô viện trợ BTR-50 phiên bản PK (nóc xe được bọc thép dày 10mm) và trên cơ sở đó xây dựng Trung đoàn 202 thành trung đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên.
BTR-50PK đóng vai trò tích cực trong cuộc tiến công chiến lược 1972 cả trong vai trò chi viện bộ binh lẫn phòng không với một số xe được cải tiến gắn pháo cao xạ 2 nòng 23mm ZU-23-2 hoặc mang tên lửa chống tăng có điều khiển 9K11 Malyutka. Trong ảnh là một số xe bọc thép BTR-50PK cải tiến với pháo 23mm ZU-23-2.
Sau ngày chiến thắng 1975, BTR-50PK tiếp tục tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam, được Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 sử dụng trong trận đổ bộ đánh chiếm cảng Kampong Som của hải quân Khmer Đỏ tháng 1/1979.Trong ảnh là BTR-50PK đổ bộ từ tàu LST trong chiến dịch Tây Nam 1979.
BTR-60 được Liên Xô thiết kế và chế tạo từ 1960 nhằm thay thế cho BTR-152 và sau đó trở thành một trong những loại thiết giáp chở quân chủ lực của các lực lượng vũ trang Liên Xô cũng như trọng xã hội chủ nghĩa. BTR-60 có trọng lượng chiến đấu 10,3 tấn, vỏ thép dày từ 7-10mm, trang bị 1 đại liên KPVT cỡ 14,5mm và 1 súng máy đồng trục PKT cỡ 7,62mm. Xe có kíp chiến đấu 3 người và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh.
BTR-60PB được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ và đóng vai trò tích cực trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975. Đặc biệt, nhờ khả năng lội nước nên BTR-60PB đã phát huy hiệu quả chiến đấu cao trên địa hình sông rạch trong đội hình cánh quân tiến công giải phóng Sài Gòn từ hướng Tây - Tây Nam. Trong ảnh là đội hình xe BTR-60PB tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975.
BRDM-2 được Liên Xô nghiên cứu thiết kế và chế tạo từ 1962 nhằm thay thế cho BRDM-1 trong vai trò xe lội nước làm nhiệm vụ tuần tiễu và trinh sát. BRDM-2 có trọng lượng chiến đấu 7,7 tấn, bọc thép 2-14mm, kíp chiến đấu 4 người, được trang bị 1 đại liên KPVT cỡ 14,5mm và 1 súng máy đồng trục PKT cỡ 7,62mm. Việt Nam bắt đầu tiếp nhận một số BRDM-2 do Liên Xô viện trợ từ năm 1970 và sau đó trang bị cho các đơn vị cảnh vệ hoặc trinh sát của bộ binh cơ giới, pháo binh, phòng hóa.
Xe tăng hạng nhẹ Type 62 do Trung Quốc sản xuất, xe có trọng lượng chiến đấu 21 tấn, vỏ thép dày từ 15-50mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ nòng 85mm với cơ số đạn 47 viên. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam một số ít Type 62. Tuy nhiên loại xe này chưa bao giờ được đưa vào biên chế chính thức quân đội ta. Trong thực tế, những chiếc Type 62 từng được bộ đội Việt Nam sử dụng đều là chiến lợi phẩm tại chỗ thu được từ quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979) hoặc từ quân Trung Quốc trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2/1979. Ảnh minh họa